Tổng số lượt xem trang

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2013

NGĂN CHẶN ÂM MƯU “TỰ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG HIỆN NAY



                                                           Nguyễn Hữu Nghị, CTVP d1

         Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc năm 1945, được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa, của lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên toàn cầu, hàng loạt các quốc gia, dân tộc đã đứng lên đánh đổ các thế lực thực dân, đế quốc giành độc lập dân tộc và lựa chọn con đường phát triển của mình đi lên xã hội hiện đại. Các thế lực đế quốc tiếp tục tìm cách khuất phục các quốc gia non trẻ mới giành được độc lập bằng sức mạnh quân sự, tuy nhiên cơ bản đều thất bại. Không từ bỏ âm mưu lôi kéo, thâm nhập, gây ảnh hưởng, làm rối loạn toàn diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của những nước không đi theo “thế giới tự do” của các thế lực phản động, chúng đã đưa ra cái gọi là “cuộc cách mạng nhung” để có thể dẫn tới “chiến thắng không cần chiến tranh”, và “Diễn biến hòa bình” là một nội dung quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Đây là cuộc chiến thầm lặng nhằm tấn công toàn diện vào các mục tiêu bên trong cả về chính trị, kinh tế, tư tưởng, lý luận, văn hóa, nghệ thuật ..., khoét sâu những mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự thống nhất về tư tưởng và ý chí trong đảng cộng sản, làm cho nội bộ tự suy yếu và tự diễn biến. Việt Nam là một trong những nơi các thế lực phản động, đế quốc tập chung tiến hành “Diễn biến hòa bình”
       Thực chất của “diễn biến hòa bình” chính là nhằm đẩy mạnh quá trình tự diễn biến, chủ động tạo ra các áp lực, tấn công chính diện vào lĩnh vực tư tưởng và lý luận, từ đó làm tan rã niềm tin, suy sụp về tinh thần, mất định hướng, hỗn loạn về lý luận, sẽ là điều kiện tốt nhất hình thành và nuôi dưỡng tâm trạng hoài nghi, tư tưởng bất mãn chống đối từ bên trong. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ráo riết theo đuổi và thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm tạo ra quá trình tự diễn biến, tập trung trước hết ở lĩnh vực tư tưởng và lý luận, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ đã làm sụp đổ nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, kể cả Liên Xô - nhà nước hùng mạnh nhất trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa.
        Để nhận diện một cách rõ nét “tự diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận, cần xác định đúng bản chất, mục tiêu chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Có thể tóm tắt mục tiêu của chiến lược này tập trung ở các khía cạnh:
        Dùng mọi thủ đoạn và tất cả các phương tiện hiện có, phản bác, xuyên tạc, phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng, từng bước thay thế chủ nghĩa Mác bằng ý thức hệ tư sản.
        - Xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc. Tạo áp lực và gây sức ép buộc chúng ta từ bỏ con đường đã chọn, quay trở lại chủ nghĩa tư bản.
Đòi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải rút lui khỏi vũ đài chính trị, thực hiện đa nguyên, đa đảng.
        “Tự diễn biến hòa bình” là sản phẩm và là biểu hiện cụ thể của “diễn biến hòa bình”, do sức ép và áp lực từ “diễn biến hòa bình” tạo nên. Như vậy, “diễn biến hòa bình” là hoạt động tấn công từ phía kẻ thù, còn “tự diễn biến hòa bình” là nói về quá trình diễn ra trong chính nội bộ ta.
        “Tự diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận thể hiện tập trung trước hết là ở sự dao động về chính trị, mất định hướng, khủng hoảng niềm tin, đường lối chiến lược và lý luận. Ở Việt Nam, trước sự tấn công của kẻ thù bằng “diễn biến hòa bình”, đã làm xuất hiện bệnh cơ hội, thực dụng, thiếu trung thực gia tăng, thái độ thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
       Về khách quan, nguyên nhân của “tự diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận trước hết chịu sự tác động từ phía chủ nghĩa đế quốc. Sau khi Tổng thống Barack Obama trúng cử và tái trúng cử nhiệm kỳ II, chính phủ Mỹ đã có những điều chỉnh và các bước đi tích cực trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không thay đổi mục tiêu chống phá cách mạng nước ta. Họ tạo sức ép, khoét sâu vào những yếu kém của chính chúng ta trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; tập trung công kích, đả phá vào Đảng ta, gây xung đột, bất bình, mất đoàn kết nội bộ, đặc biệt là vu khống, xuyên tạc, chủ đích làm mất đoàn kết trong cán bộ cấp cao. Hơn thế, bằng chiêu thức tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, chính quyền mới của Obama đang đưa “diễn biến hòa bình” vào sâu hơn trong nội bộ ta, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự diễn biến, trong đó chú trọng đến tự diễn biến trong lĩnh vực tư tưởng và lý luận; tiếp tục làm biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên, đẩy nhanh tốc độ quá trình suy sụp niềm tin, mất định hướng phát triển, từng bước làm biến chất chế độ xã hội chủ nghĩa.
       Từ góc độ chủ quan, nguyên nhân của “tự diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận, trước hết là do nhận thức non kém của bộ phận cán bộ, đảng viên. Sau khi nhiều nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, đất nước ta đứng trước nhiều thách thức và phải đối mặt với không ít khó khăn. Trước những hiện tượng phức tạp nảy sinh, nhiều cán bộ, đảng viên không đủ sức tự lý giải. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế diễn ra nhanh chóng và sâu rộng, nhận thức của nhiều người đã không theo kịp với yêu cầu của sự phát triển, thiếu hiểu biết dẫn đến hoang mang, dao động, cao hơn nữa là mất niềm tin, mất định hướng. Đồng thời, mặt trái của kinh tế thị trường cũng đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức, có quyền đã thoái hóa về phẩm chất, đạo đức lối sống, vì lợi ích cá nhân, lại thiếu sự rèn luyện tu dưỡng, bị những cám dỗ vật chất làm “hoa mắt”, biết sai vẫn cố tình làm, miễn là thu lợi nhiều nhất cho cá nhân mình. Từ sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, tất yếu sẽ dẫn tới sự biến chất về chính trị, trở thành kẻ phản bội lợi ích của cách mạng. Quan liêu, tham nhũng là biểu hiện của loại hình tự diễn biến xấu xa và tệ hại nhất về mặt tư tưởng - chính trị, phá từ bên trong, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của chế độ.
        Tự diễn biến về mặt tư tưởng và lý luận còn do tình trạng một số nơi mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng kéo dài, làm nội bộ suy yếu, mất sức đề kháng, tư tưởng xấu thâm nhập lây lan, tư tưởng tích cực tiến bộ suy giảm.
        “Tự diễn biến hòa bình” trong lĩnh vực tư tưởng và lý luận có cùng một mục tiêu chung mà kẻ địch hướng tới làm cho đại đa số cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ta, từ cán bộ cấp cao cho đến dân thường đều có chung tâm trạng hoài nghi, dao động. Nghi ngờ thành quả cách mạng trong quá khứ, nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn tiêu cực, yếu kém, thiếu niềm tin vào tương lai.
        Để đạt được mục tiêu đề ra, phạm vi tác động của “tự diễn biến hòa bình” về tư tưởng và lý luận mà kẻ thù đang tập trung hướng tới bao gồm:
        - Một bộ phận cán bộ trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, đang giữ những những vị trí trọng trách trong bộ máy quản lý nhà nước và hệ thống chính trị; Trí thức và tầng lớp văn nghệ sỹ; Thanh niên, sinh viên, lực lượng đông đảo và có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, là bộ phận năng động, nhạy bén, có khả năng tiếp nhận và thích nghi với cái mới nhanh; Những phần tử cơ hội chính trị; Một bộ phận nhân dân do thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, hoặc bị kẻ xấu lợi dụng mua chuộc dụ dỗ, đặc biệt là đồng bào dân tộc ít người, đồng bào theo các tôn giáo ... Bộ phận này thường bị kích động, lôi kéo, trở thành quân cờ chính trị trong tay các thế lực thù địch. Chúng sử dụng bộ phận này như một công cụ gây áp lực chính trị, buộc chúng ta nhượng bộ thay đổi đường lối.
        Trước những tác động của tình hình thế giới, của kỹ thuật truyền thông hiện đại và nghệ thuật chiến tranh tâm lý, thông qua tự diễn biến, một bộ phận nhỏ trong đó có cả cán bộ, đảng viên đã bị kẻ thù làm lung lạc ý chí và niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước. Song một thực tế không thể phủ nhận, nhờ kiên trì vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, dưới ánh sáng soi đường của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt thế kỷ XX Đảng ta đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam làm nên những kỳ tích ở thế kỷ XX, đó là: Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công chấm dứt kiếp lầm than nô lệ cho dân tộc, lần lượt đánh bại hai kẻ thù xâm lược hùng mạnh làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, Đại thắng mùa xuân 1975 khiến cả thế giới ngưỡng mộ, khâm phục. Nêu gương sáng cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Thực hiện sáng tạo công cuộc đổi mới, CNH - HĐH đất nước 27 năm qua, hội nhập toàn diện với khu vực  và thế giới, có vị thế chính trị cao trong cộng đồng quốc tế. Đó chính là sức mạnh, là chất miễn dịch, là động lực để toàn Đảng, toàn dân ta ngăn chặn, đẩy lùi và làm thất bại hoàn toàn âm mưu “tự diễn biến hòa bình” của kẻ thù. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển khách quan của sự nghiệp đổi mới, trước những mưu đồ đen tối và cực kỳ nham hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch, cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến hòa bình”, chúng ta cần thực hiện triệt để một số biện pháp sau: Rút kinh nghiệm những thành tựu to lớn và hạn chế từ thực tiễn 27 năm đổi mới, thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020;  Kiên quyết chống trả và bác bỏ các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh, đường lối, chính sách Đảng và Nhà nước; Đẩy mạnh Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chọn các điển hình tiên tiến trong thực hiện Cuộc vận động để nhân rộng, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, làm cho Cuộc vận động từng bước đi vào chiều sâu, tạo ra những chuẩn giá trị đạo đức mới có sức cổ vũ các tầng lớp nhân dân. Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh và nâng cao nhận thức về chủ nghĩa xã hội chính là nền tảng vững chắc ngăn chặn và đấu tranh chống “tự diễn biến hòa bình”.
        Nắm chắc và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ chí Minh, vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam trên cơ sở kiên định đường lối xã hội chủ nghĩa, chúng ta sẽ làm thất bại mọi âm mưu “tự diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Hạt nhân cốt lõi làm lên thắng lợi đòi hỏi sự kiên định, gương mẫu và vai trò tiên phong của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tập hợp quần chúng tạo nên sức mạnh vô song, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

MỘT VÀI KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC Ở KHOA VĂN HÓA NGOẠI NGỮ TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Người thực hiện: 2// Th.S Nguyễn Hữu Nghị



         Hiện nay ở Khoa Văn hóa, Ngoại ngữ nói riêng cũng như các Khoa khác ở Trường Đại học Chính trị nói chung, đội ngũ giảng viên mới, giảng viên trẻ chiếm tỉ lệ rất cao với tuổi nghề dưới 5 năm công tác. Đây là đội ngũ giảng viên kế cận, tương lai của Nhà trường với đặc điểm mới tốt nghiệp các trường đại học trong và ngoài quân đội, đang trong độ tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, tinh thần nghề nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy đội ngũ giảng viên trẻ cũng vấp phải không ít khó khăn: đối tượng giảng dạy khác với mục tiêu yêu cầu đào tạo ở các trường đại học họ tốt nghiệp, khả năng, kinh nghiệm giải quyết các tình huống sư phạm còn hạn chế, việc nắm bắt, làm chủ công nghệ thông tin, ứng dụng trang thiết bị hiện đại vào giảng dạy còn lúng túng, chưa hiệu quả, phương pháp dạy học còn đơn điệu, kiến thức đại học ít nhiều bị rơi rụng…từ thực tiễn kết quả đổi mới phương pháp dạy học ở Khoa Văn hóa Ngoại ngữ những năm gần đây, chúng tôi xin được trao đổi một số kinh nghiệm sau:
        Thứ nhất: Sự quan tâm,chỉ đạo sâu sát của cấp ủy, chi bộ, lãnh đạo,  Chỉ huy Khoa, cán bộ Bộ môn trong công tác bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, năng lực sư phạm cho đội ngũ giảng viên trẻ đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
        Ngay từ đầu năm học, học kỳ, căn cứ vào lịch dự báo nhiệm vụ giảng dạy, Cấp ủy, Chi bộ, lãnh đạo chỉ huy Khoa cùng bộ môn rà soát chất lượng giảng viên, nắm chắc ưu điểm và hạn chế sư phạm của từng đồng chí, lên kế hoạch bồi dưỡng chi tiết đến từng tuần và triển khai thực hiện nghiêm túc, trọng tâm là:
       Củng cố kiến thức cơ bản: thông qua hướng dẫn hoạt động tự học, tự nghiên cứu củng cố, mở rộng kiến thức chuyên ngành đảm nhiệm; tăng cường hoạt động nhóm chuyên môn: sinh hoạt học thuật, trao đổi kinh nghiệm lên lớp, đặc biệt là yêu cầu của Khoa khi thông qua bài phải giảng thành công bằng bảng đen phấn trắng rồi mới giảng trình chiếu (điều này buộc các giảng viên trẻ phải thuộc, hiểu, nắm chắc kiến thức, thành thục nội dung bài giảng mới có thể thoát ly giáo án, tự tin trong quá trình lên lớp) tránh tư tưởng không cần nắm kỹ nội dung bài, chỉ cần ấn các Slide trình chiếu là giảng được.
       Bồi dưỡng về phương pháp, kỹ năng sư phạm: dưới nhiều hình thức: tổ chức thông qua bài ở bộ môn, cán bộ Khoa, bộ môn tăng cường dự giờ, kiểm tra giảng thường xuyên, đột xuất. Các tổ chức đoàn thể như Hội đồng quân nhân, Chi đoàn thanh niên, Hội phụ nữ Khoa linh hoạt, sáng tạo lồng ghép hoạt động sư phạm trong các hoạt động trọng tâm của mình: tổ chức các giờ giảng thi đua, giờ giảng thanh niên, phụ nữ hưởng ứng các đợt thi đua do Nhà trường, Khoa phát động. Qua đó tạo bầu không khí sư phạm sôi nổi, thiết thực, hiệu quả. Từ những giờ giảng thông qua bài ở Khoa cho đến những giờ giảng tốt, giờ giảng rút kinh nghiệm, giờ giảng thi giảng viên giỏi Nhà trường, Khoa luôn khuyến khích, động viên, tạo điều kiện cho mọi giảng viên đi dự. Qua đó những ưu điểm của từng đồng chí được ghi nhận, phát huy, đồng thời những hạn chế bộc lộ sẽ được rút kinh nghiệm khắc phục chung cho đội ngũ giảng viên mới, giảng viên trẻ từ kỹ thuật viết bảng, tư thế tác phong, khẩu khí, ngôn ngữ đến xây dựng và giải quyết tình huống sư phạm, dạy học nêu vấn đề, dạy học tích cực trong từng chủ đề hay học phần, soạn giảng trình chiếu. Một số giờ giảng của các giảng viên trẻ Triệu Thu Thủy, Đặng Thị Hương Trầm, Nguyễn Thị Thủy, Đặng Quốc Tuấn được Thủ trưởng Nhà trường, Thủ trưởng Khoa dự có ấn tượng tốt, được kịp thời động viên, khích lệ, nhân rộng…Bên cạnh đó kết thúc mỗi buổi dự giảng, Khoa cũng như bộ môn tổ chức đánh giá nghiêm túc, rút kinh nghiệm từng ưu điểm và hạn chế một cách khách quan, cho các giảng viên được dự giờ. Qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên của Khoa, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện của Khoa, Nhà trường.
        Thứ hai:Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở Khoa VHNN cần đặc biệt nâng cao chất lượng nội dung giảng dạy, hết sức chú ý khắc phục lối truyền thụ một chiều, máy móc xơ cứng, đặc biệt khi giảng dạy cho đối tượng học viên quốc tế; Giải quyết tốt vấn đề thời gian và nội dung môn học; sử dụng hiệu quả phương tiện trình chiếu.
       Chúng ta biết rằng ngày nay, sự nghiệp đổi mới của đất nước đang diễn ra mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu, những vấn đề kinh tế, xã hội trở nên sôi động cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật thế giới, việc giảng dạy các môn học không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức đóng cứng trong giáo trình, tập bài giảng mà cần phải cập nhật thực tiễn, theo sát những chuyển biến của đất nước và thế giới, kịp thời lựa chọn, bổ sung, cập nhật thông tin vào bài giảng thông qua Nghị quyết của Đảng, các nguồn tài liệu tham khảo chính thống qua các kênh thông tin phong phú của thời đại khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin. Bên cạnh đó, bài giảng rất cần tổng kết kinh nghiệm, đúc rút quy luật, dự báo cho tương lai, nhất là với các môn khoa học xã hội. Một bài giảng hấp dẫn, khoa học phải luôn gắn liền với thực tiễn cuộc sống của đất nước, của dân tộc và của thời đại.
        Để nâng cao chất lượng nội dung dạy học đòi hỏi giảng viên phải không ngừng bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, hiểu biết sâu sắc khoa học chuyên ngành, nắm bắt kịp thời những tri thức khoa học liên ngành để phục vụ công tác giảng dạy. Đổi mới phương pháp dạy học ở Khoa VHNN yêu cầu đặt ra là phải nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính tư tưởng trong từng tiết giảng, từng chuyên đề, học phần. Điều này có nghĩa là thông qua những kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội ,ngoại ngữ khơi dậy ở học viên ý thức tự giáo dục tư tưởng và chuyển biến hành động của họ.
         Một vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới phương pháp ở Khoa VHNN nói riêng, các khoa trong Nhà trường nói chung là mâu thuẫn cần giải quyết giữa số tiết của các môn học có hạn định với khối lượng kiến thức các môn học không ngừng tăng lên trong thời đại bùng nổ thông tin. Để giải quyết tốt mâu thuẫn này, vấn đề quan trọng đối với giảng viên là xác lập được một kết cấu nội dung chương trình hợp lý, khoa học, hàm chứa được những nội dung cơ bản của môn học, lựa chọn kiến thức phù hợp để bài giảng theo kịp hơi thở cuộc sống, tránh giáo điều, lạc hậu thông tin, đồng thời giảng viên cần tận dụng vai trò của giáo trình, tập bài giảng, tài liệu tham khảo phục vụ học tập  môn học sao cho hiệu quả nhất đảm bảo tính chọn lọc, cập nhật mà không gây cảm giác “quá tải” đối với học viên.
       Thứ ba: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học.
        Theo phương hướng này, giảng viên trong quá trình lên lớp phải làm sao huy động toàn bộ các chức năng tâm lý, đặc biệt là khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của học viên để thực hiện tốt mục tiêu đào tạo đề ra.
        Bản chất của việc chuyển sang phương pháp dạy học tích cực, thực hiện tăng đối thoại trong dạy học chính là “tạo ra mối quan hệ tích cực giữa giảng viên và học viên trong quá trình dạy học”, và như vậy, đổi mới phương pháp dạy học dựa trên sự kết hợp tối ưu hoạt động của giảng viên với hoạt động của học viên theo hướng tích cực. Giảng viên không áp đặt, không làm thay học viên, đến lượt mình, học viên không thụ động, ỷ lại, chỉ tái hiện lại nội dung bài giảng một cách đơn thuần. để thực hiện được điều này, khâu giảng bài có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng:
       Đẩy mạnh phương pháp dạy học nêu vấn đề, làm cho mỗi bài giảng trở thành một quá trình “tìm kiếm mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn”, đồng thời tạo ra sự say mê, hứng thú, kích thích tính năng động, sáng tạo của người học. như vậy, chất lượng của bài giảng nêu vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào sự chuẩn bị nội dung của cả giảng viên và học viên.
        Giảng viên tạo ra tình huống có vấn đề một cách hợp lý, sẽ kích thích tư duy sáng tạo của người học, gây hứng thú học tập cho học viên, học viên cảm thấy được trực tiếp tham gia vào quá trình tìm kiếm chân lý, tìm kiếm nguồn tri thức mới…Khi nêu vấn đề, giảng viên cần hướng dẫn cho học viên phương pháp suy nghĩ, phát triển ở họ khả năng tư duy khoa học năng lực nhận xét, phê phán, khái quát hoá. Có những vấn đề khoa học đưa ra từ đầu học phần, chuyên đề, có những câu đưa ra trong quá trình giảng bài hoặc kết thúc bài giảng, có những vấn đề giảng viên giải đáp ngay, có những vấn đề cho học viên thời gian tìm tòi, suy nghĩ, thông qua đó tạo ra động cơ học tập cho người học bởi về mặt tâm lý, bởi con người chỉ tư duy tích cực khi nhận thấy có vấn đề cần tìm hiểu, nghiên cứu và lức bấy giờ mới có nhu cầu nghiên cứu và học tập.
         Về vấn đề soạn giảng trình chiếu: hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện dạy học đã được cải thiện đáng kể, 100% hội trường được lắp máy chiếu, hệ thống bài soạn của các giảng viên cơ bản được soạn trình chiếu và sử dụng trong quá trình lên lớp, tuy nhiên qua thực giảng đã bộc lộ nhiều hạn chế: một số giảng viên chưa hiểu rõ dạy trình chiếu cần sơ đồ hóa bài giảng, một số khác bài giảng trình chiếu vẫn nặng về đưa bài giảng World lên màn hình, dùng màn hình thay cho bảng đen phấn trắng dẫn tới các slide trình chiếu lạm dụng quá nhiều chữ khi đưa lên màn hình, học viên mải chép thì không nghe giảng được, không hiểu bài, mà mải nghe giảng thì không ghi chép được nội dung cơ bản (nhất là với đối tượng học viên quốc tế Lào và Cam pu chia). Để khắc phục vấn đề này, lãnh đạo chỉ huy Khoa, Hội đồng Khoa học khoa cùng các cán bộ bộ môn đã rà soát, chỉnh sửa đến từng bài giảng để đảm bảo tính khoa học, hợp lý và đúng với nghĩa bài giảng trình chiếu, ứng dụng phương tiện, công nghệ hiện đại vào dạy học. Khắc phục triệt để tình trạng lạm dụng màu mè trong các slide, sử dụng quá nhiều tranh ảnh gây phân tán sự chú ý của học viên.
         Thứ tư: Giảng viên định hướng đổi mới phương pháp học tập của học viên sao cho ngày càng thống nhất với phương pháp nghiên cứu khoa học.
         Giảng viên với tư cách là chủ thể của quá trình dạy học, tổ chức, hướng dẫn học viên chuyển dần từ phương pháp học tập truyền thống: tiếp thu, tái nhận và tái hiện tri thức, kỹ năng…sang con đường tự tìm tòi, tự khám phá, sáng tạo, con đường nghiên cứu khoa học.
         Học viên đào tạo SQCT cấp phân đội chưa phát huy được nhiều tính tự chủ và khả năng nghiên cứu khoa học trong quá trình học tập, điều mà sinh viên các trường đại học ngoài quân đội nhận thức và tiến hành tốt hơn.
         Các học phần của Khoa VHNN cơ bản được bố trí dạy ở năm thứ nhất và thứ hai, đây cũng là một khó khăn không nhỏ cho giảng viên khi tổ chức, hướng dẫn học viên tập dượt, nghiên cứu khoa học. Học viên đào tạo dù có nguồn từ học sinh phổ thông hay đã trải qua quân ngũ khi vào học năm thứ nhất, thứ hai còn hết sức bỡ ngỡ với phương pháp dạy học đại học, quá trình học tập còn mang những dấu ấn phổ thông. Vấn đề đặt ra cho giảng viên là phải làm sao khơi gợi, khích lệ tinh thần ham học hỏi, tập dượt nghiên cứu khoa học, để nghiên cứu khoa học trở thành nhu cầu, thành phong trào cho học viên SQCT cấp phân đội.
        Trên thực tế, vấn đề hướng dẫn học viên tập dượt nghiên cứu khoa học ở  Khoa VHNN đã được tiến hành từ nhiều năm qua, đặc biệt là ở bộ môn Lịch sử, Văn học, Cơ sở văn hóa, Tiếng Anh. Tuy nhiên kết quả đạt được còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng thực tế. Để học viên có thể say mê, hứng thú và nhiệt tình tập dượt nghiên cứu khoa học, cần phải tạo ra động lực cho họ như tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ hiệu quả cả về vật chất và tinh thần từ các Phòng, Khoa, Ban, Hệ, Tiểu đoàn. Có hình thức động viên, khen thưởng tương xứng với kết quả nghiên cứu đạt được.
        Dù kết quả nghiên cứu khoa học còn khiêm tốn nhưng nó đã có tác dụng không nhỏ trong việc bồi dưỡng, giáo dục cho học viên phương pháp học tập, phương pháp nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo. Thực hiện tốt định hướng này sẽ giúp học viên khơi dậy tiềm lực hoạt động nghiên cứu khoa học, có năng lực không ngừng nâng cao trình độ nhận thức khoa học của bản thân, góp phần giải quyết những vấn đề khoa học mới mẻ do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Mặt khác, làm cho học viên có điều kiện thâm nhập thực tiễn xã hội, hoà được vào nhịp sống xã hội và tích cực đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của xã hội.
        Tóm lại: đổi mới phương pháp dạy học  ở khoa VHNN thực chất là đổi mới cách thức hoạt động dạy học của giảng viên và học viên, nó đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo cao độ của giảng viên trong quá trình lựa chọn phương pháp, đổi mới phương pháp dạy học để có được phương pháp tối ưu, kết quả đánh giá cuối cùng chính là hiệu quả tiếp nhận, lĩnh hội tri thức chủ động, sáng tạo, hiệu quả của học viên.
            * Địa chỉ liên lạc: Nguyễn Hữu Nghị, CTV.P Tiểu đoàn 1, Trường Đại học Chính trị.    SĐT: 0915.074275

Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

NGÀY ẤY CHƯA XA



                                                         Nguyễn Hữu Nghị
               Khoa Văn hóa Ngoại ngữ Trường Đại học Chính trị
   
       Với kinh nghiệm gần 20 năm làm công tác giảng dạy, khoác trên mình bộ quân phục nhà binh tôi luôn tự hào mình là “thầy giáo – chiến sĩ”, bây giờ tôi đã được coi là “lão làng” trong con mắt các giảng viên trẻ của Khoa Văn hóa Ngoại ngữ. Ấy vậy mà mỗi lần ngồi phía cuối lớp dự giờ, kiểm tra giảng những tiết lên lớp đầu tiên của các giảng viên trẻ mới về Khoa công tác, trong lòng tôi vẫn dấy lên cảm xúc bồi hồi, khó tả. Dường như khi tôi lắng nghe, chăm chú theo dõi những gương mặt tươi trẻ căng tràn nhiệt huyết ấy, tôi lại bắt gặp hình ảnh của chính mình gần 20 năm về trước của một kỷ niệm luôn sống mãi trong tôi: buổi lên lớp đầu tiên trước đối tượng học viên Hệ 3 (hoàn thiện cao đẳng 18 tháng những năm 1996- 1998).
       Tốt nghiệp Khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1995, đáng lí ra tôi phải là thầy giáo của những cô cậu cấp 3 mới đúng, vậy mà cơ duyên lại đưa cuộc đời tôi trở thành người “lái đò” của những sinh viên mặc áo lính. Vẫn ngày ngày lên lớp với bảng đen, phấn trắng nhưng đối tượng thì hoàn toàn khác với những gì tôi hình dung trước khi vào quân ngũ. Không phải là những cô cậu học trò tuổi mới lớn hồn nhiên, trong trẻo, tinh nghịch chỉ nhường lại hai vị trí đầu cho “nhất quỷ nhì ma”.
       Sau những tuần đầu bỡ ngỡ, tôi đã từng bước thích nghi, hòa nhập với đặc thù công việc, lần lượt được thủ trưởng Khoa cho “thử sức” trước các đối tượng học viên như d1 (cử tuyển dân tộc ít người), d2, d3, d5… (học viên đào tạo cán bộ chính trị bậc đại học có nguồn đầu vào từ học sinh phổ thông và quân nhân, CM – chuyển loại chuyên môn kỹ thuật, BT – chuyển loại trung đội trưởng).
       Trung tuần tháng 11 năm 1998, tôi được thủ trưởng giao nhiệm vụ huấn luyện mới: tham gia giảng dạy 2 lớp Hệ 3 hoàn thiện cao đẳng 18 tháng. Đối tượng học viên của 2 lớp này, đa phần là những cán bộ đã trải qua thực tế công tác nhiều năm, quân hàm từ thượng úy đến thượng tá, trải qua nhiều cương vị khác nhau, tuổi thanh xuân đã nhiệt thành cống hiến cho đất nước và mới chỉ học qua các lớp sơ cấp, trung cấp nay mới có điều kiện để học tiếp. Về tuổi tác, họ đáng bậc cha chú của tôi; về kinh nghiệm thực tiễn, họ giàu vốn sống và trải nghiệm, nhiều đồng chí trong lớp có lẽ tuổi quân còn nhiều hơn tuổi đời của tôi. Nhận nhiệm vụ, tôi mang tâm trạng bất an với cảm giác lo lắng dường như có một áp lực vô hình đang đè nặng, liệu mình có đủ tự tin, bản lĩnh để hoàn thành nhiệm vụ trong khi chỉ có bầu nhiệt huyết  tuổi trẻ và kinh nghiệm giảng dạy hơn 1 năm đứng lớp.     
       Đêm trước hôm lên lớp đối tượng Hệ 3, mặc dù đã chuẩn bị hồ sơ giáo án đầy đủ, đã tập giảng, thông qua bài khá trơn tru ở Khoa nhưng sao vẫn thấy chộn rộn trong lòng, một cảm giác hồi hộp, lo âu, thắp thỏm – một tâm trạng khó diễn đạt thành lời. Tôi vốn là người rất dễ ngủ, vậy mà không sao chợp mắt được. Cứ nhắm mắt vào là những dòng giáo án, những tình huống sư phạm của bài giảng ngày mai lại hiện lên trong tâm trí tôi, tiến trình bài giảng như được tua lại nhiều lần…Tôi chỉ mong sao cho trời chóng sáng để được lên lớp “công diễn” với không nhiều tự tin.
       6g30 phút, kẻng báo vào lớp, tôi bước lên bục giảng với tâm trạng khá hồi hộp, trống ngực đập thình thịch, nhịp tim có lẽ phải lên đến 150 lần/phút. Tôi đưa mắt nhìn một lượt xuống lớp học với những ấn tượng mạnh: 2/3 học viên trong lớp đeo kính lão, đa số mái đầu điểm bạc và quân hàm thấp nhất là thượng úy…Mất mấy phút sau tôi mới lấy lại được cảm giác thăng bằng. Sau vài lời giới thiệu làm quen của buổi đầu lên lớp, tôi nghe có tiếng xì xào: “thầy giáo trẻ thế, hơn con gái út của tôi một tuổi” tôi làm như không nghe thấy và bắt đầu bài giảng. Tiết đầu tiên của chủ đề 3 học phần Lịch sử dân tộc: “Khái quát lịch sử văn hóa Việt Nam” chủ yếu là giải quyết các khái niệm văn hóa, văn minh, văn hóa học, cơ sở văn hóa, bản sắc văn hóa, văn hóa cổ truyền…có những khái niệm rất trừu tượng, không dễ cắt nghĩa, nhất là phải lấy ví dụ thực tiễn để minh chứng, mà tôi thì vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn còn ít ỏi. Một số học viên trong lớp còn kiểm tra kiến thức của thầy giáo trẻ bằng cách đưa ra một số câu hỏi có thể không khó nhưng mang yếu tố bất ngờ như “Nhờ thầy giải thích cho ‎ý nghĩa của nhà mồ, tượng nhà mồ và lễ bỏ mả của một số dân tộc ở Tây Nguyên”; “Vì sao trong thế giới hiện đại khoa học kỹ thuật phát triển, con người có sự hiểu biết sâu sắc về thế giới nhưng dòng người gia nhập các tôn giáo vẫn không ngừng gia tăng?”…Trong những trường hợp này, đối với đa số giáo viên trẻ nếu không bình tĩnh xử l‎ý các tình huống “phát sinh ngoài kịch bản” sẽ “toát mồ hôi hột”, loay hoay dẫn tới cháy giáo án và có thể tiết học sẽ đi theo một hướng rất khác. Tôi thầm nghĩ “có lẽ mình bị nắn gân đây”, nhưng mình sẽ biến thách thức này thành cơ hội để khẳng định thương hiệu của Khoa Văn hóa Ngoại ngữ, thương hiệu của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trước khi trả lời câu hỏi của các đồng chí học viên, tôi thường đặt các câu hỏi ngược lại để cả lớp cùng suy nghĩ, trả lời như: “các đồng chí có biết điểm khác nhau rất đặc biệt của đồ cúng đồng bào Tây nguyên trong lễ Bỏ mả với đồ cúng của đồng bào Kinh?”; “Mối liên hệ giữa người sống và người chết trước và sau khi làm lễ Bỏ mả”; “Những áp lực của cuộc sống hiện đại và nhu cầu tinh thần của con người?”…rồi tôi cố gắng vận dụng hết kiến thức, khả năng diễn đạt để làm sao có câu trả lời thuyết phục nhất trước cả lớp. Tiết học trở nên sôi nổi, khoảng cách tuổi tác giữa giáo viên và học viên dường như không còn nữa, tôi đã cảm nhận được những ánh mắt hài lòng, thân thiện, thái độ tôn trọng của lớp học dành cho mình.
       Tiếng kẻng báo hiệu giờ học kết thúc. Tôi thở phào nhẹ nhõm, một cảm giác sảng khoái, nhẹ nhõm ngập tràn, những lo lắng, mệt mỏi bởi một đêm mất ngủ dường như tan biến. Về đến Khoa, đồng chí Chủ nhiệm Khoa bắt tay thân mật hỏi “thế nào con trai? Hôm nay dạy ổn chứ”, tôi đứng nghiêm giơ tay thực hiện động tác chào: “Báo cáo thủ trưởng, tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ!”.
 

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

THẾ GIỚI NHẬN THỨC VỀ KHỦNG BỐ, CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ



                                          Th.s  Nguyễn Hữu Nghị, Học viện Chính trị quân sự
                                       (Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số tháng 10/2006) 
        Khái niệm khủng bố (Terror) xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, nhưng trong lịch sử nhân loại, khủng bố đã hoành hành từ hàng ngàn năm qua. Trong phần lớn lịch sử của nó, cho đến trước những năm 60 của thế kỷ XX, khủng bố chủ yếu liên quan đến các cuộc nổi dậy của lực lượng đối lập nhằm gây sức ép, lật đổ nhóm cầm quyền (hay thống trị) ở một nước hay khu vực nào đó. Từ cuối những năm 60 thế kỷ XX, các hoạt động khủng bố bắt đầu mở rộng ra khỏi phạm vi một nước hay khu vực và hiện tượng bắt cóc máy bay trở thành thủ đoạn phổ biến trên toàn cầu. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX chiến thuật khủng bố được áp dụng nhiều là hành động bắt cóc con tin. Đến những năm 90 xuất hiện những nhóm khủng bố mới theo chủ nghĩa “Jihad” (thánh chiến Hồi giáo) của các nhóm Hồi giáo cực đoan với những hành động khủng bố tàn bạo hơn, do đó con số thương vong, sự tàn phá về vật chất là vô cùng nặng nề.
       Vào thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ XX và XXI, khủng bố lại mang sắc thái mới, đã trở thành một trong những yếu tố cốt lõi của quan hệ quốc tế hiện đại. Một hiện tượng đặc biệt của khủng bố đã xuất hiện, không liên quan đến một nhà nước cụ thể nào, các tổ chức khủng bố với thành phần đa quốc gia có căn cứ bí mật ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Các tổ chức khủng bố này có những mục đích chính trị và cơ sở tư tưởng nhất định, trong đó nổi trội nhất là trào lưu tư tưởng của chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan, và chính trào lưu tư tưởng này đã làm nảy sinh một dạng vũ khí khủng bố mới – vũ khí “người – bom” và một dạng khủng bố mới cực kỳ nguy hiểm: khủng bố liều chết. Ngày 11/9/2001 thế giới đã hết sức bàng hoàng, chấn động bởi vụ khủng bố kinh hoàng nhất từ trước đến nay: vụ tấn công khủng bố vào trung tâm thương mại thế giới và Lầu năm góc ở Mỹ. Đây là một điển hình của hoạt động phá hoại quy mô lớn do khủng bố gây ra. Tiếp đó tại một số nước như Ấn Độ , Indonesia, Philippines, Pakixtan, Arập Xêút, Nga, Tây Ban Nha, Anh…cũng đã xảy ra những vụ khủng bố ở nhiều quy mô, mức độ khác nhau.
       Tính chất nguy hiểm đối với hoà bình, an ninh thế giới và sự mở rộng quy mô hoạt động khủng bố quốc tế những năm gần đây làm thay đổi nhận thức của cộng đồng quốc tế về chủ nghĩa khủng bố cũng như cách thức chống lại nó. Các nhà lãnh đạo các quốc gia và các lực lượng hoà bình dân chủ trên thế giới trong khi khẳng định chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế là cuộc đấu tranh lâu dài, gay go phức tạp, đã nhấn mạnh rằng chỉ có tiến hành hợp tác trên phạm vi rộng rãi mới có thể chống khủng bố một cách có hiệu quả.
      Tuy nhiên cho đến nay, xung quanh việc xác định thế nào là khủng bố, chủ nghĩa khủng bố, hành động nào bị coi là khủng bố…lại chưa có sự thống nhất quan điểm, chưa có sự định nghĩa thống nhất không chỉ giữa các nước mà ngay cả trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách của nhiều nước. Đây là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt xét cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, bởi vì không thể chống khủng bố một cách hiệu quả và loại bỏ nó triệt để tận gốc rễ nếu không đạt tới sự nhận thức toàn diện, thống nhất về khủng bố, chủ nghĩa khủng bố.
       Cho đến nay, thế giới đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về khủng bố, chủ nghĩa khủng bố. Văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên về chủ nghĩa khủng bố là “ Bản Công ước Giơnevơ” ký ngày 16/11/1937 trong đó các hành động khủng bố được xác định chung là “những việc làm phạm tội ác nhằm chống lại một nhà nước mà mục đích hoặc bản chất là gây ra sự khủng khiếp đối với các nhân vật nhất định, đối với nhóm người, hay đối với dân chúng”(1).
       Từ điển “ Nhà ngoại giao” (The Diplommats Dictionary) của Charler W. Frêman, mô tả khủng bố như sau: khủng bố là “ Sự sử dụng bạo lực chống những người không chiến đấu, những thường dân và những người khác (thông thường được xem như là những mục tiêu không hợp pháp của hoạt động quân sự) vì mục đích thu hút sự chú ý về một sự nghiệp chính trị, buộc những người lãnh đạo cuộc đấu tranh nào đó phải từ bỏ sự tham gia của họ, hay hăm doạ các đối thủ phải nhượng bộ” (2).
       Theo “Từ điển quốc tế mới bộ thứ ba của hãng Webster” (Webster’s Third New International Dictionary): “Khủng bố là sự đe dọa làm cho ai sợ, gây nên sự sợ hãi đột ngột và chủ nghĩa khủng bố là sử dụng các thủ đoạn gây ra sự sợ hãi một cách có hệ thống hoặc là tạo ra bầu không khí khủng bố hoặc bạo lực” (3).
        Bách khoa toàn thư chính trị học Praikhơuylơ đưa ra giải thích rằng có thể định nghĩa ngắn gọn: “chủ nghĩa khủng bố là sự đe doạ mang tính cưỡng chế”, còn nếu định nghĩa toàn diện thì chủ nghĩa khủng bố  “là sự sử dụng một cách hệ thống các thủ đoạn ám sát, sát thương hoặc phá hoại, thông qua các thủ đoạn trên để gây ra sự hoảng sợ nhằm cưỡng bức nhiều người phục tùng một ý đồ nào đó. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế là chủ nghĩa khủng bố vượt qua biên giới quốc gia” (4).
       Theo quan niệm của chuyên gia nghiên cứu về chủ nghĩa khủng bố Paolo Uygơchinsơn (Anh), “chủ nghĩa khủng bố có tính chất chính trị rất rõ ràng, tức là sử dụng hoặc đe doạ sử dụng một cách có hệ thống các thủ đoạn ám sát, phá hoại nhằm hăm doạ hoặc cưỡng bức cá nhân, đoàn thể, tổ chức, chính phủ chấp nhận yêu sách chính trị hoặc phần tử khủng bố” (5).
        Bộ ngoại giao Mỹ đưa ra định nghĩa về hoạt động khủng bố là “ một hành động bạo lực có mưu tính trước, nhằm những mục đích chính trị và hướng vào những mục tiêu không tham chiến (dân thường, nhân viên quân sự không vũ trang, những cuộc tấn công nhân viên có vũ trang và các cơ sở quân sự không trong tình trạng đối đầu về quân sự) do các nhóm thiểu số trong nội bộ dân tộc hoặc những nhân viên mật tiến hành để tác động đến dân chúng” (6).
       Tại Pháp, hoạt động khủng bố được xác định là “ một hoạt động có chủ định, sử dụng hăm doạ hoặc bạo lực nhằm lật đổ các định chế dân chủ hoặc tách một bộ phận lãnh thổ quốc gia khỏi quyền lực nhà nước” (7).
       Theo học giả Alex P. Schmid: “ chủ nghĩa khủng bố là thủ đoạn do cá nhân, đoàn thể hoặc người hành động của nhà nước sử dụng hành động bạo lực để gây sự sợ hãi, lo âu, mất ổn định. Các phần tử khủng bố thông thường chọn đối tượng trực tiếp bị hại mà không có mục tiêu hoặc tìm đối tượng trong quần chúng một cách có lựa chọn, người trực tiếp bị hại trong hành động khủng bố không phải là mục tiêu hành động chính mà là trung gian truyền tin, mục đích cần đạt tới của chủ nghĩa khủng bố sẽ quyết định phưưng thức hành động khủng bố mà đoàn thể đó sử dụng” (8).
        Theo P.E. Abramôvich, giám đốc Trung tâm nghiên cứu về bài ngoại và phòng ngừa chủ nghĩa cực đoan, Viện Xã hội học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (cũ): “ chủ nghĩa khủng bố là một biến dạng của chủ nghĩa cực đoan chính trị trong phương án bạo lực thái quá của chủ nghĩa nào đó. Đó là một hiện tượng hẹp về cơ sở xã hội do một nhóm thực hiện, thậm chí do một người cụ thể thực hiện” (9).
        Cuốn Đại Bách khoa toàn thư Trung Quốc viết: “ Chủ nghĩa khủng bố quốc tế là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức sử dụng bạo lực có ý thức gây hoảng sợ và dùng các thủ đoạn giết hại hoặc uy hiếp tính mạng cá nhân hoặc nhóm người, phá hoại tài sản công tư để thực hiện một mục đích chính trị nào đó hoặc mục đích khác trong phạm vi quốc tế. Đó là hành vi của một số cá nhân hoặc tập thể có mục đích chính trị và xã hội nào đó, sử dụng bạo lực hoặc phi bạo lực tiến công và đe doạ các cơ quan hoặc cá nhân, hoặc dể tạo ra bầu không khí hoảng sợ, đã giết hại bừa bãi những người dân vô tội, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng” (10).  
        Đại từ điển tiếng Việt (1999) định nghĩa khủng bố: “ Dùng bạo lực đàn áp gây nhiều tổn thương, làm cho khiếp sợ hòng khuất phục” (11).
       Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002) định nghĩa khủng bố quốc tế: “ Loại khủng bố nhằm vào cá nhân, tổ chức hoặc mục tiêu được pháp luật quốc tế bảo vệ: giết người đứng đầu nhà nước, chính phủ, đại diện ngoại giao và các đại diện khác; phá huỷ đại sứ quán, trụ sở của phái đoàn đại diện các tổ chức, dân tộc, các tổ chức quốc tế, phá hoại hệ thống giao thông quốc tế…với mục đích gây sức ép đối với chính sách đối nội, đối ngoại của các quốc gia. Khủng bố quốc tế là một loại tội ác có tính chất quốc tế” (12).
        Khủng bố theo từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam (2004): “là hành động bạo lực tàn ác của cá nhân, của một tổ chức, một nhà nước nhằm phá hoại, đe doạ, gây sợ hãi hoặc cưỡng bức, buộc đối phương “khuất phục” hay thực hiện những yêu sách nhất định; một loại tội phạm quốc tế”. Hình thức khủng bố: bắt cóc, ám sát, đánh bom, tàn sát man rợ…khủng bố được một số nước và các thế lực “phản động”, các phần tử cực đoan, lực lượng ly khai trên thế giới sử dụng như một quốc sách hoặc một chiến lược để thực hiện những mục đích nhất định” (13).
        Qua một số khái niệm về khủng bố nêu trên, ta thấy giữa chúng có điểm chung là: khẳng định khủng bố là hành động dã man nhằm gây khiếp sợ cho chính phủ và thường dân để đạt mục tiêu chính trị, xã hội nào đó, song nói chung là chưa đưa ra được những tiêu chí cụ thể để có thể nhận diện một cách rõ ràng khủng bố. Ngoại trừ định nghĩa của “ Đại Bách khoa toàn thư Trung Quốc” định nghĩa này đã đưa ra một số tiêu chí cụ thể:
       Phạm vi chủ nghĩa khủng bố mang tính quốc tế, liên quan trực tiếp đến công dân của hai quốc gia trở lên, hoặc những phần tử khủng bố không có quốc tịch nước chúng phạm tội, bao gồm cả việc công dân các nước thứ 3 thông qua hoặc xúi dục công dân nước sở tại phạm tội.
       Mở rộng mục đích phạm tội của chủ nghĩa khủng bố từ chính trị sang xã hội hoặc các phương diện khác, tức là nhân tố phi chính trị đã gia tăng tương đối. Có lúc cũng xuất hiện một số chủ nghĩa khủng bố mang tính thể hiện, chúng không còn là những phe phái có “chủ nghĩa” hoặc “lý tưởng”, cũng không có hành động mang tính tổ chức, giết người hàng loạt chỉ để là trút đi nỗi thống khổ, phẫn nộ và thất bại đã tích tụ lâu trong lòng các thành viên, hoặc chỉ để chứng minh sự tồn tại của bản thân.
         Ngày nay, chủ nghĩa khủng bố quốc tế có thêm thủ đoạn “ không sử dụng bạo lực”. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của nhân loại ngày càng tiện lợi, nhưng lại vô cùng yếu đuối. Kỹ thuật thông tin trong đó có mạng Internet mang lại lợi ích to lớn cho kinh tế và xã hội, nhưng cũng đồng thời làm cho rất nhiều hoạt động của nhân loại phải dựa vào sự vận hành của mạng Internet. Cách mạng khoa học kỹ thuật sinh học, tiêu biểu là công nghệ gien bên cạnh việc đem lại hạnh phúc cho nhân loại cũng có thể đưa đến một loạt vấn đề nan giải. Để đạt được hiệu quả gây sức ép tâm lý lớn, chủ nghĩa khủng bố quốc tế rất có thể sẽ hoạt động phá hoại trong các lĩnh vực kỹ thuật như thông tin, sinh học, quá trình đó có lẽ rất “văn minh” hoặc rất “khoa học”, hậu quả lại là tai hoạ huỷ diệt toàn thế giới.
        Việc giết hại bừa bãi người dân vô tội được xem là một tiêu chuẩn vô cùng  quan trọng để xác định đây chính là hoạt động khủng bố. Dù những kẻ khủng bố sử dụng bạo lực hay phi bạo lực có lý tưởng “vĩ đại” hay “cao cả” đến đâu, chỉ cần trực tiếp giết hại bừa bãi những người dân vô tội đều là hành động khủng bố, phạm tội.
        Hiện nay trên thực tế cũng có quan niệm quá rộng về chủ nghĩa khủng bố. Đó là quan niệm cho rằng mọi hành vi bạo lực nhằm đạt được mục đích chính trị đều bị coi là khủng bố, bất kể là các hành vi bạo lực đó nhằm vào mục tiêu quân sự hay dân sự, và bất kể đó    những cuộc đấu tranh đòi độc lập cho một dân tộc
(như cuộc đấu  tranh của người  Kurd ở Thổ  Nhĩ  Kỳ,  của  Quân  đội  cộng  hoà
Ai Len ở Bắc Ai Len thuộc Anh, hay phong trào đòi độc lập cho xứ Basque ở Tây  Ban Nha…) cũng như cuộc đấu tranh của một số tổ chức chính trị – xã hội (như Mặt trận cứu nguy Hồi giáo Angiêri). Đây là quan điểm phản chính thống của các chính phủ ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đa dân tộc. Hoặc cuộc đấu tranh chính nghĩa của một dân tộc, trong đó có đấu tranh vũ trang – chẳng hạn như cuộc đấu tranh của nhân dân Palextin từ trước đến nay có thể coi là khủng bố không ?. Vấn đề  này có nguồn  gốc lịch  sử của hai dân tộc Do thái và
Ả rập ở xứ  Palextin. Do vậy cuộc đấu tranh của người Palextin được cả thế giới công nhận, ủng hộ. Tuy nhiên nhiều năm qua, các phần tử cực đoan trong phong trào kháng chiến của người Palextin đã gây ra nhiều vụ khủng bố nhằm vào dân thường khiến dư luận thế giới không thể đồng tình.
       Ở một góc độ khác: Hoa Kỳ gọi Osama Bin Ladel là “trùm khủng bố số 1 quốc tế”, Bin Laden và Taliban lại lên án nhà nước Hoa Kỳ là trùm khủng bố thế giới, kẻ diệt chủng; Ixaraen tố cáo chính quyền  Palextin là nuôi dưỡng các phần tử khủng bố, nhưng nhà nước Palextin lại lên án nhà nước Ixaraen là nhà nước khủng bố…tất cả những điều đó cho thấy vấn đề nhận thức về chủ nghĩa khủng bố của nhân loại cho đến nay còn hết sức khó khăn để có thể đi đến một định nghĩa thống nhất. Ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều tán thành chống khủng bố “nhưng do người ta chưa nhất trí được với nhau thế nào là “khủng bố” – hoặc tất cả mọi người đều hiểu “thế nào là khủng bố mặc dù không nói ra được “khủng bố là thế nào” – cho nên đôi khi có người miệng nói là chống khủng bố nhưng hành động lại gần như là khủng bố” (14).
        Như vậy, qua một vài quan niệm trên về chủ nghĩa khủng bố, chúng ta có thể đi tới nhận thức rằng hoạt động khủng bố là những hành động bạo lực hoặc đe doạ dùng bạo lực một cách có tổ chức nhằm vào các cá nhân, các thiết chế hoắc các tổ chức xã hội nào đó gây ra sự thiệt hại về vật chất, con người và tinh thần đối với dân thường vô tội, ảnh hưởng và tạo ra sự lo ngại đối với xã hội để đạt được mục đích chính trị cụ thể. Trên thực tế, do xuất phát từ động cơ, mục đích khác nhau nên nhận thức về nội hàm và ngoại diên khái niệm chủ nghĩa khủng bố cũng được hiểu không đồng nhất. Nhận thức về khủng bố sở dĩ rất khác nhau và gây tranh cãi gay gắt trên trường quốc tế là do nhiều nhân tố: nguồn gốc lịch sử của vấn đề, lợi ích chính trị của giai cấp cầm quyền, những khác biệt về hoàn cảnh chính trị – xã hội, lịch sử, văn hoá, tôn giáo của mỗi nước. Một định nghĩa chung thống nhất được chấp nhận rộng rãi trên thế giới là khó đạt được.
         Hoạt động khủng bố là phi nhân đạo, bị cả thế giới lên án cực lực. Hành động khủng bố nhất thiết phải loại trừ ra khỏi xã hội văn minh, như lời Chủ tịch Phidel Castro đã nói “Dù nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa khủng bố như thế nào, dù các yếu tố kinh tê và chính trị có ảnh hưởng đến nó như thế nào, và dù ai đó phải chịu trách nhiệm đã mang nó đến với thế giới này, thì cũng không một ai có thể phủ nhận rằng chủ nghĩa khủng bố ngày nay là một hiện tượng nguy hiểm không thể bào chữa được về mặt đạo lý và phải bị loại trừ” (15).

*CHÚ THÍCH:
          (1), (2):  Bộ Quốc Phòng – Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trường (2002), Khủng bố, nhận diện và đối phó, Hà Nội. Trang 7 – 8.
         (3): Báo cáo trình Quốc Hội – Cơ quan nghiên cứu của Quốc Hội Việt Nam  (2003), Chủ nghĩa khủng bố ở Đông Nam Á, Hà Nội. Trang 8.
        (4), (5): Tổng cục Chính trị - Thư viện Quân đội (2004), Về chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện nay, Tài liệu nghiên cứu phục vụ lãnh đạo tháng 7, Hà Nội. Trang 11, 12, 13.
        (6), (7): Pascal Boniface (2002), Những cuộc chiến tranh trong tương lai, NXB Thông tấn, Hà Nội. Trang 18 – 19.
        (8): Lý Vĩnh Long, Cố Trường Vĩnh (2004), “Về chủ nghĩa khủng bố ở Đông      Nam Á”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (1), trang 28.
        (9): Tổng cục Chính trị - Thư viện Quân đội (2004), Về chủ nghĩa khủng bố quốc tế hiện nay, Tài liệu nghiên cứu phục vụ lãnh đạo tháng 7, Hà Nội. Trang  13.
        (10):  Bộ Quốc Phòng – Trung tâm thông tin khoa học công nghệ môi trường (2002), Khủng bố, nhận diện và đối phó, Hà Nội. Trang 8.    
         (11): Nguyễn Như Ý cb (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội. Trang 927.
         (12):  Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam tập 2, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội. Trang 543.
         (13): Bộ Quốc Phòng - Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự (2004), Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Trang 572.
         (14): Nam Hồng, Quang Lợi, Lê Huy Hòa (2003), Khủng bố và chống khủng bố (STK) tập 3 Cuộc chiến không giới hạn, NXB Lao động, Hà Nội. Trang 130.
         (15): Về chủ nghĩa khủng bố (2002), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. Trang 45.