Tổng số lượt xem trang

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

BỘ MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI 35 NĂM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN


BỘ MÔN KHOA HỌC XÃ HỘI  35 NĂM TRƯỞNG THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

                                                                                  Th.S Nguyễn Hữu Nghị CNBM
    
        Trong tiết trời se lạnh với cái nắng trong và nhẹ nhàng người ta dễ bắt gặp một cảm giác thật quen thuộc như đã được gọi tên từ rất lâu trong tiềm thức mỗi con người: mùa thu. Có nhà thơ đã từng nói: “mùa thu làm cho người gieo mầm trẻ mãi”, và với mỗi cán bộ, giảng viên khoa VHNN - những người đang ngày đêm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người” góp phần đào tạo những sĩ quan chính trị tương lai của đất nước với một trái tim đầy nhiệt huyết và những ước mơ, hoài bão tuổi trẻ thì đây sẽ còn là một mùa thu thật đáng nhớ bởi gắn liền với những cảm xúc thật ấm áp mỗi độ thu sang ấy, chúng ta còn được sống trong không khí náo nức chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam của cán bộ, giảng viên, học viên, công nhân viên, chiến sĩ toàn Trường. Đặc biệt, là niềm vui hân hoan chào đón lễ kỷ niệm 5 năm ngày tái thành lập Trường Sĩ quan Chính trị nói chung và 35 năm thành lập khoa VHNN mà bộ môn KHXH là một thành viên.
        Ra đời cùng với ngày thành lập Khoa, các thế hệ giảng viên bộ môn KHXH rất tự hào rằng bộ môn KHXH đã đóng góp một phần không nhỏ trong quá trình xây dựng và trưởng thành của Khoa suốt 35 năm qua dù trải qua không ít lần thay đổi tên gọi bộ môn cũng như tên Khoa.
-                   Từ năm 1976 đến năm 1978 giảng viên bộ môn dưới sự quản lý của Tổ Kiến thức văn hóa trực thuộc Ban Giám hiệu Trường SQCT. Đến ngày 12/11/1978 các giảng viên KHXH trực thuộc sự quản lý của khoa VHNN cùng với sự phát triển của Nhà trường.
-                   Năm 1980, bộ môn Văn học và bộ môn Lịch sử được thành lập (cùng các bộ môn Tự nhiên (Toán, Lý, Hóa), Tiếng Việt và Tiếng Anh thuộc Khoa Văn hóa, Trường Sĩ quan Chính trị
-                   Từ 1980 đến 1995, bộ môn Văn học và bộ môn Lịch sử thuộc Khoa Văn hóa Ngoại ngữ, Trường Sĩ quan Chính trị.
-                   Từ 1995 đến 1998, bộ môn Văn và bộ môn Sử - Địa thuộc khoa VHNN, Học viện Chính trị Quân sự .
-                   Từ năm 1998 đến năm 2001, bộ môn Văn, bộ môn Sử - Địa thuộc Khoa Văn hóa đại cương, Học viện Chính trị Quân sự.
-                   Từ năm 2001 đến tháng 11 năm 2008, bộ môn Văn và bộ môn Sử - Địa thuộc Khoa Khoa học cơ bản, Học viện Chính trị Quân sự.
-                   Từ tháng 11 năm 2008 đến nay là bộ môn KHXH (gồm các giảng viên giảng dạy Văn học, Lịch sử, Địa lý) thuộc Khoa VHNN Trường Sĩ quan Chính trị.
       Quá trình phát triển của Bộ môn 35 năm qua luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của chi ủy, chi bộ, lãnh đạo chỉ huy Khoa trên tất cả các mặt công tác: giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phát triển đảng, bồi dưỡng kết nạp quần chúng ưu tú vào đảng, động viên kịp thời những đồng chí gặp nhiều khó khăn trong công tác cũng như trong cuộc sống, đó là cơ sở để bộ môn đoàn kết,quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. 35 năm qua, Bộ môn đã nhiều lần được Nhà trường tặng giấy khen vì hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, nhiều cá nhân được Thủ trưởng Nhà trường tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở vì có nhiều thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ năm học như đồng chí Nguyễn Đắc Trục, Nguyễn Hữu Nghị, Nguyễn Kim Loan, Nguyễn Thị Huệ; nhiều đồng chí được tặng bằng khen, giấy khen của Thủ trưởng Tổng cục chính trị, thủ trưởng Nhà trường trong các cuộc thi tìm hiểu về Đảng, về quân đội, về Nhà trường, về Biển đảo, về tổ chức công đoàn, phụ nữ như các đồng chí Lê Thị Huyền (đạt giải Ba toàn quân cuộc thi tìm hiểu 60 năm nước CHXHCNVN), đồng chí Thiều Thị Minh (đạt giải Nhì toàn quân cuộc thi tìm hiểu 80 năm ngày thành lập HLHPNVN). Các đồng chí Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thế Hiệu, Nguyễn Thị Thủy có nhiều thành tích xuất sắc trên các mặt công tác đóng góp vào thành tích của Bộ môn… Đồng chí Nguyễn Đắc Trục, Nguyễn Hữu Nghị nhiều năm liền tham gia huấn luyện đội tuyển Olimpic các môn khoa học Lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Nhà trường đi thi toàn quân đạt thứ hạng cao (năm 2001 đạt giải nhì toàn quân, năm 2002 đạt giải ba toàn quân, năm 2009 đạt giải nhất toàn quân, năm 2012 đạt giải nhì toàn quân). Ghi nhận những thành tích trên, Thủ trưởng Nhà trường đã tặng giấy khen cho Bộ môn vì đạt nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua quyết thắng 3 năm 2008 – 2011.   
       Tự hào từ những ngày đầu thành lập Tổ kiến thức văn hóa thuộc Trường SQCT tháng 1/1976 gồm 13 đồng chí, đã có 7 đồng chí giảng dạy các môn KHXH, trong 35 năm qua có 48 giảng viên đã và đang giảng dạy ở Bộ môn. Hiện tại, bộ môn có 10 giảng viên: 1 CNBM, 1 P.CNBM (6 giảng viên Lịch sử, 3 giảng viên Văn học và một giảng viên Địa lý). Về chất lượng đội ngũ: 100% tốt nghiệp đại học, có 6 thạc sĩ (trong đó có 1 đồng chí đang làm nghiên cứu sinh), một học viên cao học sắp bảo vệ và 3 đồng chí có trình độ cử nhân. Rất nhiều giảng viên bộ môn có năng lực chuyên môn vững vàng, là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực chuyên môn mình đảm nhiệm như đồng chí Nguyễn Đắc Trục đã từng tập huấn cho toàn quân về giảng dạy môn Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Lịch sử dân tộc Việt Nam cho các học viện, nhà trường toàn quân, nhiều đồng chí là giảng viên dạy giỏi cấp Khoa, cấp Nhà trường nhiều năm liền như đồng chí Nguyễn Đắc Trục, đồng chí Nguyễn Hữu Nghị đạt danh hiệu giảng viên dạy giỏi chuyên ngành cấp Bộ trong hội thi Giảng viên giỏi các học viện, nhà trường toàn quân năm 2001 được tổ chức tại Trường Sĩ quan Lục quân 1, đồng chí Vũ Hồng Thủy, Nguyễn Kim Loan (đã nghỉ hưu) giảng viên giỏi cấp Khoa, Nhà trường.
       Trong công tác nghiên cứu khoa học, bộ môn thực sự phát huy thế mạnh của mình, nhiều đồng chí đã phát huy vai trò đầu tàu thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học của Khoa lên những tầm cao mới như đồng chí Nguyễn Đắc Trục, đồng chí Nguyễn Hữu Nghị, đồng chí Lê Duy Thắng có hàng chục bài báo đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành, những đồng chí Lê Thị Huyền, Nguyễn Bá Thanh, Vũ Đức Tho, Nguyễn Thị Thủy cũng đang từng bước khẳng định mình trên con đường nghiên cứu khoa học với những thành công bước đầu hết sức đáng khích lệ. Bên cạnh đó, những năm qua bộ môn đã tham gia nghiên cứu hàng loạt công trình có giá trị điển hình là: đề tài cấp Bộ Quốc Phòng “Xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ QĐNDVN trong giai đoạn cách mạng mới” năm 1990 – 1991; đề tài cấp Bộ tổng Tham mưu Giải pháp đổi mới biên soạn giáo trình, tài liệu ở Trường SQCT” với vai trò tham gia của đồng chí Nguyễn Đắc Trục; Biên soạn tài liệu cho Tổng cục Chính trị năm 1990 “Một số vấn đề về Lịch sử dân tộc Việt Nam”, “Một số vấn đề về Lịch sử văn hóa Việt Nam” do đồng chí Nguyễn Đắc Trục làm chủ biên”; “Tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thẩm mỹ cho học viên Sĩ quan Chính trị cấp phân đội tại HVCTQS” năm 2001 do đồng chí Nguyễn Đắc Trục làm chủ nhiệm đề tài; “Những giải pháp nâng cao kỹ năng nói - viết – giao tiếp cho HVSQCT cấp phân đội” năm 2002 do đồng chí Vũ Hồng Thủy làm củ nhiệm đề tài; Đổi mới phương pháp dạy học môn LSDTVN trong đào tạo SQCT quân sự cấp phân đội” năm 2006 do đồng chí Nguyễn Hữu Nghị làm chủ nhiệm đề tài; “Nâng cao chất lượng dạy học môn Địa lý chính trị cho đối tượng đào tạo Chính trị viên” năm 2008 do đồng chí Nguyễn Hữu Nghị làm chủ nhiệm đề tài, “Giáo trình Địa lý chính trị” năm 2012 do đồng chí Nguyễn Đắc Trục làm chủ biên…cùng các Tập bài giảng Văn học 2003, Tập bài giảng Lịch sử dân tộc 2005, Tập tài liệu tham khảo Văn học 2003,  do Bộ môn thực hiện...
        Về đối tượng giảng dạy: Bộ môn tham gia gảng dạy cho tất cả các đối tượng học viên trong toàn Trường: CT, CM, BT, GV, GVQPAN, TS, VB2, Hoàn thiện đại học, đào tạo quốc tế, tham gia đào tạo liên kết tại Trường Sĩ quan lục quân 2, Quân khu VII, Học viện Biên phòng.
       Nội dung các học phần giảng dạy của bộ môn:
1.           Văn học (gồm cả Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài)
2.           Lý luận văn học
3.           Lịch sử dân tộc Việt Nam
4.           Lịch sử văn minh thế giới
5.           Cơ sở văn hóa Việt Nam
6.           Lịch sử Đông Nam Á
7.           Địa lý chính trị
Những đồng chí Chủ nhiệm bộ môn KHXH qua các thời kỳ
* Bộ môn Văn học:
- Đồng chí Hoàng Mạnh Kính: 1978 – 1983
- Đồng chí Hoàng Viết Đích: 1983 – 1995
- Đồng chí Vũ Thị Hồng Thủy: 2000 - 2008
- Đồng chí Nguyễn Kim Loan: 2008
* Bộ môn Lịch sử - Địa lý
- Đồng chí Hoàng Đình Sá: 1978 – 1980
- Đồng chí Phạm Văn Mai: 1980 – 1983
- Đồng chí Phan Văn Lượng: 1983 – 1985
- Đồng chí Nguyễn Văn Hữu: 1985 – 1988
- Đồng chí Nguyễn Đắc Trục: 1988 – 2000 ( Từ 1995 – 2000 là tổ Văn – Sử - Địa)
- Từ năm 2000 – 2005: đồng chí Nguyễn Đắc Trục được bổ nhiệm P.CNK kiêm CNBM Lịch sử - Địa lý)
- Đồng chí Nguyễn Hữu Nghị 2006 – 2008
* Bộ môn KHXH: từ năm 2008 (Trên cơ sở sáp nhập từ bộ môn Văn học và bộ Môn Lịch sử - Địa lý)
- Đồng chí Nguyễn Hữu Nghị: từ 2008 đến nay
        Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, Phát huy truyền thống 35 năm qua, Bộ môn KHXH khoa VHNN dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Khoa VHNN tiếp tục đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ, đổi mới chương trình theo sự chỉ đạo của Nhà trường, đẩy mạnh đổi mới phương pháp, tăng cường làm chủ, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trong tương lai để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của Nhà trường trong giai đoạn mới, Bộ môn phấn đấu 100% giảng viên có trình độ sau đại học, có từ 2 – 3 Tiến sĩ, nâng cao trình độ lý luận Văn học, phương pháp luận Sử học cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Nhà trường, Khoa giao phó, góp phần xây dựng Khoa VHNN ngày càng vững mạnh. Ôn lại truyền thống trưởng thành và phát triển 35 năm của Khoa, các giảng viên trẻ thế hệ 8X của bộ môn và Khoa tự hào mãi mãi ghi nhớ công ơn của những thế hệ giảng viên lớp trước, nguyện sẽ mang hết tài năng, tâm huyết và sức trẻ xây dựng khoa vững mạnh toàn diện, mãi tự hào với thương hiệu Khoa Văn hóa Ngoại ngữ Trường Sĩ quan Chính trị thân yêu.

Quan diểm của Việt Nam về vấn đề chống khủng bố hiện nay



                                                                          2// Th.S Nguyễn Hữu Nghị      
                                                                                CTV.P Tiểu đoàn 1
          Hoạt động khủng bố trên thế giới xuất hiện từ rất sớm, là mối đe dọa hòa bình và an ninh toàn thể nhân loại. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế hòa hoãn thay thế cho đối đầu cùng với quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ đã kéo các quốc gia, dân tộc trên thế giới xích lại gần nhau trong xu thế hội nhập cùng phát triển. Tuy nhiên, cũng từ sau Chiến tranh lạnh nhân loại đã và đang phải đương đầu với sự bùng phát ngày càng gia tăng của các hoạt động khủng bố. Khủng bố và chống khủng bố trở thành vấn đề thời sự được cập nhật thường xuyên và trở thành vấn đề được đề cập đến ngày càng nhiều trong các cuộc hội thảo, các chương trình nghị sự, các diễn đàn an ninh khu vực và hợp tác quốc tế.
         Là một thành viên tích cực có uy tín và vị thế ngày càng tăng ở khu vực và trên trường quốc tế, Việt Nam đã quan tâm sâu sắc và bày tỏ thái độ, quan điểm của mình về vấn đề đấu tranh chống khủng bố. Từ nền tảng truyền thống đối ngoại hoà hiếu, tinh thần yêu chuộng hoà bình, đường lối đối ngoại nhân đạo được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử, Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kịch liệt lên án, phản đối mọi hình thức hoạt động khủng bố. Việt Nam lên án khủng bố quốc tế ủng hộ sự hợp tác giữa các quốc gia trong đó có Mỹ nhằm loại trừ khủng bố quốc tế: “Việt Nam cho rằng, chủ nghĩa khủng bố là một trong những mối đe doạ trắng trợn nhất đối với hoà bình, an ninh và ổn định trên thế giới hiện nay”[1]  . Việt Nam cam kết tích cực tham gia đóng góp sức mình vào cuộc đấu tranh với các hoạt động khủng bố. Việt Nam nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ của mình được cam kết trong các công ước, văn bản quốc tế mà Việt Nam ký kết trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố. Việt Nam đã ra nhập một số công ước quốc tế trong lĩnh vực chống khủng bố như Công ước Kyôtô 1963, Công ước Lahay 1970, Công ước Montreal 1971, Nghị định thư 1998 bổ xung công ước Montreal và đang nghiên cứu việc gia nhập một số công ước quốc tế khác về chống chủ nghĩa khủng bố.
       Đã từng phải đối mặt với những hoạt động mang tính chất khủng bố như vụ cướp máy bay năm 1979, vụ tên không tặc Lý Tống xâm phạm bầu trời Việt Nam rải truyền đơn năm 2000, các phần tử kích động gây rối ở Tây Nguyên từ ngày mùng 10 đến ngày 13 tháng 4 năm 2004…đặc biệt trong âm mưu Diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch  chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc đổi mới, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, kẻ thù cũng sử dụng hành động khủng bố hòng gây mất ổn định an ninh chính trị, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân…Nhận thức sự nguy hiểm của chủ nghĩa khủng bố,  Việt Nam luôn có một thái độ rõ ràng, dứt khoát đó là phản đối mạnh mẽ mọi hoạt động khủng bố, mọi hành động phá hoại trật tự an ninh quốc gia, mọi âm mưu hành động xâm phạm chủ quyền, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các quốc gia dân tộc.
       Vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội luôn được Đảng và nhà nước Việt Nam quan tâm đặc biệt. Trong Văn kiện nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI ghi rõ: “giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác”[2] .  Bộ luật hình sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng quy định rõ những hình phạt nghiêm khắc cho loại tội phạm đặc biệt, tội khủng bố:
    “Điều 84: tội khủng bố.
   1. Người nào nhằm khủng bố chính quyền nhân dân mà xâm phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân thì bị phạt tù từ 12 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
   2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khoẻ người khác thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm.
   3. Phạm tội trong trường hợp đe doạ xâm phạm tính mạng hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần thì bị phạt tù từ 2 đến 7 năm.
   4. khủng bố người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho hoạt động quốc tế của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo điều này”[3].
        Trong điều 3 Luật chống khủng bố của nước CHXHCNVN ban hành ngày 12 tháng 6 năm 2013, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2013 khẳng định:
        1. Khủng bố là một, một số hoặc tất cả hành vi sau đây của tổ chức, cá nhân nhằm chống chính quyền nhân dân, ép buộc chính quyền nhân dân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng:
a) Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, uy hiếp tinh thần của người khác;
b) Chiếm giữ, làm hư hại, phá hủy hoặc đe dọa phá hủy tài sản; tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
c) Hướng dẫn chế tạo, sản xuất, sử dụng hoặc chế tạo, sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán vũ khí, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, chất cháy và các công cụ, phương tiện khác nhằm phục vụ cho việc thực hiện hành vi quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này;
d) Tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục, cưỡng bức, thuê mướn hoặc tạo điều kiện, giúp sức cho việc thực hiện hành vi quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
đ) Thành lập, tham gia tổ chức, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện đối tượng nhằm thực hiện hành vi quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
e) Các hành vi khác được coi là khủng bố theo quy định của điều ước quốc tế về phòng, chống khủng bố mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
       Trên các diễn đàn quốc tế, Việt Nam công khai bày tỏ quan điểm rõ ràng của mình đối với các hoạt động khủng bố. tích cực, chủ động tham gia bàn thảo về cách thức, biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các lực lượng khủng bố, hợp tác đa phương chống khủng bố. Ngày 18/9/2002, tại khoá họp lần thứ 37 Đại hội đồng LHQ, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam, Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã bày tỏ quan điểm, thái độ của Việt Nam về vụ khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ “…chúng ta lên án chủ nghĩa khủng bố chống lại dân thường dưới mọi hình thức và sẽ hành động theo đúng Hiến chương LHQ vì đó là cách để cuộc chiến chống khủng bố có thể duy trì được lâu dài…”[4] .
        Việt Nam không tán thành các hoạt động khủng bố đã cướp đi sinh mạng của nhiều người dân vô tội. Song cũng cần phải nhìn nhận vấn đề trên cơ sở khách quan và chủ quan dẫn đến hậu quả của nó. Chủ nghĩa khủng bố và khủng bố quốc tế đều có liên quan đến thực trạng bất bình đẳng nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế. Những lợi ích và bất lợi do toàn cầu hoá tạo ra không được chia xẻ một cách công bằng giữa các quốc gia, nhất là các nước phía Bắc phát triển với các nước chậm phát triển ở phía Nam. Sự phát triển không đồng đều về kinh tế, xã hội dẫn đến sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng, gây ra những phản ứng tiêu cực trong một bộ phận xã hội. Họ cảm thấy bị bế tắc trong việc tìm ra giải pháp tháo gỡ, cho nên đã tìm đến những biện pháp cực đoan, thái quá về chính trị…đấu tranh, loại trừ chủ nghĩa khủng bố quốc tế, Việt Nam cho rằng cần phải có sự hợp tác trên cơ sở bình đẳng, chú trọng phát triển kinh tế. Muốn chống khủng bố hiệu quả thì phải phát triển cân đối, phải đảm bảo sự bình đẳng trong hưởng thụ những thành tựu chung của văn minh nhân loại ở cả quy mô khu vực và thế giới. Cộng đồng thế giới nói chung, trước hết là các nước công nghiệp phát triển, cần phải giúp đỡ các nước nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo đói, bệnh tật và chậm phát triển. Ở đâu công bằng xã hội được thực thi kém nhất, thì ở nơi đó khủng bố xảy ra dữ dội nhất. Khủng bố là tín hiệu phản hồi của một thực trạng tồi tệ do các chính sách xã hội sai lầm cùng các quan hệ quốc tế bất bình đẳng tạo ra.
         Để đấu tranh có hiệu quả với hoạt động khủng bố, cần phải giải quyết ổn thoả, toàn diện về các vấn đề kinh tế – xã hội, dân tộc, tôn giáo, pháp luật. Các chính phủ cần tập chung sức để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thực hiện công bằng, dân chủ và tiến bộ xã hội.
        Việt Nam cũng khẳng định quan điểm phản đối việc lợi dụng vấn đề chống khủng bố để can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia. Đấu tranh chống khủng bố phải được tiến hành phù hợp với Hiến chương LHQ, các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền quốc gia cũng như nguyện vọng hoà bình, ổn định và cùng phát triển của toàn thể nhân loại. Việt Nam phản đối việc lợi dụng danh nghĩa chống khủng bố để đe doạ tấn công, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, lên án việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ khí huỷ diệt, vũ khí giết người hàng loạt, trước hết là vũ khí hạt nhân nhằm mục tiêu khủng bố hoặc dưới danh nghĩa chống khủng bố.
        Nhìn chung, đối với chủ nghĩa khủng bố, Việt Nam luôn khẳng định đó là một mối đe doạ trắng trợn đối với hoà bình, an ninh và ổn định quốc tế hiện nay. Việt Nam có quan điểm nhất quán đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa khủng bố, nhằm đảm bảo hoà bình và ổn định cho quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Cuộc đấu tranh chống khủng bố cần phải được tiến hành  phù hợp với các ko
 nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, với điều kiện cụ thể của khu vực và phạm vi toàn thế giới. Quan điểm nhất quán của Việt Nam: hoạt động khủng bố là phi nhân đạo, bị cả thế giới lên án cực lực. Hành động khủng bố nhất thiết phải loại trừ ra khỏi xã hội văn minh, như lời Nguyên Chủ tịch Phidel Castro đã nói “Dù nguồn gốc sâu xa của chủ nghĩa khủng bố như thế nào, dù các yếu tố
kinh tế và chính trị có ảnh hưởng đến nó như thế nào, và dù ai đó phải chịu trách nhiệm đã mang nó đến với thế giới này, thì cũng không một ai có thể phủ nhận rằng chủ nghĩa khủng bố ngày nay là một hiện tượng nguy hiểm không thể bào chữa được về mặt đạo lý và phải bị loại trừ”[5].


      * Địa chỉ liên lạc: 2// Nguyễn Hữu Nghị CTV.P Tiểu đoàn 1, Trường Sĩ quan Chính trị.
     * ĐTDĐ: 0915.074275




[1] Về Chủ nghĩa khủng bố, NXBCTQG, Hà Nội, 2003, trang 45
[2] Toàn văn thông cáo chung Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 32 tại Singapore từ 2 – 4 tháng 7 năm 1999, HVCTQGHCM,  Tài liệu tham khảo, Hà Nội 1999, trang 221.

[3][3]  Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXBCTQG, Hà Nội 2002, trang 61
[4] Toàn văn thông cáo chung Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 32 tại Singapore từ 2 – 4 tháng 7 năm 1999, HVCTQGHCM,  Tài liệu tham khảo, Hà Nội 1999, trang 95.

[5] Về chủ nghĩa khủng bố, NXBCTQG 2003, trang 45