NHN
Khái niệm "Diễn biến hoà
bình" là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch nhằm lật đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết
là các nước xã hội chủ nghĩa và các nước không tuân theo sự lãnh đạo của chúng
từ bên trong bằng biện pháp phi quân sự.
Nội dung chính của chiến lược "Diễn biến hoà bình" là kẻ
thù sử dụng mọi thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá, xã hội, đối
ngoại, an ninh..., để phá hoại, làm suy yếu từ bên trong các nước xã hội chủ
nghĩa. Kích động các mâu thuẫn trong xã hội, tạo ra các lực lượng chính trị đối
lập núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, sắc tộc,
khuyến khích tư nhân hoá về kinh tế và đa nguyên về chính trị, làm mơ hồ giai cấp và đấu tranh giai cấp trong
nhân dân lao động. Đặc biệt, chúng coi trọng khích lệ lối sống tư sản và từng
bước làm phai nhạt mục tiêu, lí tưởng xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận học sinh.
Triệt để khai thác và lợi dụng những khó khăn, sai sót của Đảng, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên sức ép, từng bước
chuyển hoá và thay đổi đường lối chính trị, chế độ xã hội theo quỹ đạo chủ
nghĩa tư bản.
Sự hình thành và phát triển của chiến lược "Diễn biến hoà bình" Chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "Diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Sự hình thành và phát triển của chiến lược "Diễn biến hoà bình" Chiến lược “Diễn biến hoà bình” đã ra đời, phát triển cùng với sự điều chỉnh phương thức, thủ đoạn chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa. Chiến lược "Diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn từ 1945 – 1980: Sau chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự
lớn mạnh của Liên Xô sự ra đời của một loạt nước xã hội chủ nghĩa, phong trào
cách mạng thế giới phát triển nhanh chóng... chủ nghĩa đế quốc thực hiện chiến
lược toàn cầu: Ngăn chặn" sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chiến
lược này do Tổng thống Mỹ Tru man khởi xướng ngày 12 tháng 3 năm 1947, trong đó
coi trọng dùng thủ đoạn quân sự đe doạ, bao vây, can thiệp vũ trang, cùng với
tiến hành chiến tranh để "ngăn chặn " ảnh hưởng của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa.
Trước đó ngày 22 tháng 12 năm 1946, Ken-man đại diện lâm thời của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ tại Liên Xô trình nên chính phủ Mĩ một bức điện 8000 từ về kế
hoạch chống Liên Xô toàn diện hơn bao gồm: Bao vây quân sự, phong toả kinh tế;
lật đổ chính trị; thậm chí dùng vũ lực can thiệp. Cũng trong thời gian này,
giám đốc CIA ( cơ quan tình báo Mĩ ) tuyên bố: Mục tiêu là phải reo rắc ở Liên
Xô sự hỗn loạn và phải bắt đầu bằng chiến tranh tâm lí thay giá trị của
Liên Xô bằng đồ rởm và tìm mọi cách ủng hộ và nâng đỡ đám gọi là “ nghệ
sĩ” để họ truyền bá bạo lực, đồi trụy, chủ nghĩa vô liêm sỉ, phản bội vào Liên
Xô. Tóm lại, mọi thứ vô đạo đức. Từ đó chiến tranh tâm lí chống Liên Xô được
nâng lên hàng quốc sách ở Mĩ, gọi là chiến tranh tâm lí tổng lực. Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Mĩ chính
thức phê chuẩn kế hoạch Mác San, tăng viện trợ để khích lệ lực lượng dân chủ,
cài cắm gián điệp vào các đảng cộng sản để phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa
và ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Tây Âu, hướng họ phụ thuộc vào Mĩ. Trong hai
năm 1949 - 1950 Mĩ đã chi 50 triệu đô la cho hoạt động chiến tranh tâm lí chống
Liên Xô . Năm 1949 Mĩ lập Uỷ ban châu Âu tự do có đài phát thanh riêng. Tháng 7
năm 1947, khi đã trở về Oa-sinh-tơn giữ chức Phó giám đốc học viện quốc phòng,
chuyên trách về đối ngoại, Ken- nan lại trình bầy những biện pháp bổ xung cho
chiến lược "ngăn chặn": bên cạnh việc tăng cường vũ lực và sẵn sàng
sử dụng vũ lực, cần tăng cường viện trợ cho các nước xung quang Liên Xô.
Như vậy, cho đến đầu thập kỷ 50, với chủ nghĩa Tru-man ý tưởng "diễn
biến hoà bình " đã được bổ xung cho chiến lược
tiến công quân sự của Mĩ chống Liên Xô.
Từ năm 1953, Ai-Xen-Hao nhận chức tổng thống và 1956 lại trúng cử nhiệm kỳ
II đến năm 1961, chính phú Mĩ đã đề ra chiến lược quân sự "trả đũa ồ
ạt" Ai-Xen-Hao dựa vào sức mạnh của răn đe vũ khí hạt nhân để thực hiện
"ngăn chặn" chủ nghĩa cộng sản. Mĩ đã đưa quân đi khắp thế giới, can
thiệp vào nội bộ chính trị các nước trong thế giới thứ ba. Trong đó chúng coi
chiến trường Việt Nam là mục tiêu chính để phá hoại CNXH và phong trào đáu
tranh giải phóng dân tộc (GPDT).
Song song với chiến lược trả đũa ồ ạt, học thuyết “Ngăn chặn phi vũ trang”
của Ken-man được tán dương và hưởng ứng, bổ xung bởi các học giả của tập đoàn
thống trị Mĩ, xuất hiện ý tưởng “hoà bình giải phóng” của AlenDalet. Như
vậy, ý tưởng “diễn biến hoà bình”
được bổ xung và trở thành biện pháp của chiến lược “Ngăn chặn” của đế quốc Mĩ.
Đến tháng 01/1961 Ken-nơ-đi thay Aixenhao và đã đưa ra chiến lược
"phản ứng linh hoạt" cùng chiến lược "hoà bình",
thực hiện chính sách "mũi tên và cành Ôliu"..Từ đây, "diễn biến
hoà bình" đã bước đầu trở thành chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế
quốc và luôn đi cùng sức mạnh quân sự.
Tháng 12/1963 Kennơ đi bị ám
sát, phó tổng thống Giôn xơn thay thế, kiêm nhiệm tới năm 1969, Giôn xơn thúc
đẩy chậy đưa vũ trang, triệt để dùng sức mạnh quân sự đi kèm với những hoạt
động phá hoại bằng chính trị mà điển hình là: các vụ bạo loạn ở CHDC Đức
(1953), Ba lan, Hungary (1956) Tiệp khắc (1968). Do lực lượng các nước XHCN
trong đó có Liên bang Xô viết lớn mạnh, chúng lấy chiến lược “phản ứng linh
hoạt” thay cho chiến lược “trả đũa ồ ạt” và tìm kiếm những biện pháp mới đi
song song cùng các hoạt động quân sự hòng chống phá hệ thống XHCN.
Từ năm 1961 Mĩ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh Cục bộ”
chúng đã dưa 50.000 quân Mĩ vào Miền Nam, bị quân và dân ta đánh cho thất bại
thảm. hại. Tháng 3/1968 Giôn iXơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bon Miền
Bắc Việt Nam, Phải tiến hành đàm phán tại hội nghị Pari, “chiến lược phản ứng
linh hoạt” bị phá sản.
Từ năm 1968 đến năm 1972 Nic xơn trúng cử tổng thống trong bối cảnh so sánh
lực lượng Mĩ - Xô đã thay đổi nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược đang ở thế
cân bằng, thất bại trong chiến trường Trung đông, Việt Nam. Nicxơn thực hiện
chiến lược quân sự “răn đe thực tế” mà mục đích cơ bản là ngăn chặn phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng XHCN đang diễn ra trên toàn
thế giới.
Cũng trong thời gian này Mĩ thực hiện chính sách ngoại giao "cây gậy và củ
cà rốt " tuy vẫn coi trọng răn đe vũ khí hạt nhân nhưng đã chủ trương tăng
cường tiếp xúc, hoà hoãn với các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành thẩm thấu tư
tưởng văn hoá, gieo rắc hạt giống chống phá từ bên trong... thúc đẩy tiến
trình, “diễn biến hoà bình" đối
với các nước xã hội chủ nghĩa. Chính Nícxơn đã nêu ra chính sách đối ngoại của
Mỹ đối với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa là dùng đối thoại thay cho đối
đầu. Đàm phán trên thế mạnh là thủ đoạn của Nícxơn để thực hiện "diễn
biến hoà bình"
Đến tháng 12 năm 1957, Tổng thống Aixenhao đã tuyên bố "Mĩ sẽ giành thắng
lợi bằng hoà bình" và mục đích của chiến lược để làm suy yếu và lật đổ các
nước xã hội chủ nghĩa.
+ Giai đoạn từ năm 1980 đến nay: Bước vào thập kỷ 80, chủ nghĩa Tư bản đạt
được ổn định và có bước phát triển. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng, thực hiện đường lối cải tổ, cải cách sai lầm, càng dẫn đến khủng hoảng
trầm trọng. Lợi dụng cơ hội đó, chủ nghĩa đế quốc hoàn chỉnh chiến lược "
diễn biến hoà bình " và ráo riết thực hiện. Nhằm làm sụp đổ Liên Xô, các
nước xã hội chủ nghĩa Đông âu cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác. Có thể lấy
năm 1988, Ních-Xơn xuất bản cuốn sách "1999, chiến thắng không cần chiến
tranh" làm mốc cho sự hoàn chỉnh chiến lược "diễn biến hoà bình"
Thất bại trong chiến lược sử dụng lực lượng quân sự mà điển hình là Việt Nam -
Trong nhiệm kỳ 2 (giữa những năm 80) của tổng thống Ri gân, bắt đầu điều chỉnh
chiến lược toàn cầu từ “răn đe thực tế bằng quân sự” sang “chiến lược
DBHB” đối với các nước XHCN mà khởi nguồn là chính sách ngoại giao của
cựu ngoại trưởng Mĩ Hen - Kit - xin - giơ và công cuộc cải tổ chính trị
của nguyên Tổng bí thư ĐCSLX M. C. Gobachov mà kết quả của nó là sự tan
rã của các nước XHCN ở đông Âu và Liên Xô, sự thoái trào của CNXH.
Sau sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục ra sức sử dụng chiến lược "Diễn
biến hoà bình" để thực hiện âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại. Các thế lực thù địch cho rằng, phải làm xói mòn tư tưởng, đạo đức và niềm
tin cộng sản của thế hệ trẻ để "tự diễn biến", tự suy yếu, dẫn đến
sụp đổ, tan rã chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước còn lại.
- Bạo loạn lật đổ: là hành động chống phá bằng bạo lực có tổ
chức do lực lượng phản động hay lực lượng li khai, đối lập trong nước hoặc cấu
kết với nước ngoài tiến hành gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội hoặc lật đổ chính quyền ở địa phương hay trung ương.
Về hình thức của bạo loạn, gồm có bạo loạn chính trị, bạo loạn vũ trang
hoặc bạo loạn chính trị kết hợp với vũ trang.
Trên thực tiễn, bạo loạn lật đổ là một thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động gắn liền với chiến lược "diễn biến hoà bình" để
xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Khi tiến hành bạo loạn lật đổ, các thế lực thù địch thường
kích động những phần tử quá khích, làm mất ổn định trật tự an toàn xã hội ở một
số khu vực và trong một thời gian nhất định (thường chỉ diễn ra trong không
gian hẹp và thời gian ngắn) tiến tới lật đổ chính quyền ở địa phương hoặc nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
Quy mô bạo loạn lật đổ, có thể diễn ra ở nhiều mức
độ, từ quy mô nhỏ đến lớn. Phạm vi địa bàn xảy ra bạo loạn lật đổ có thể ở nhiều nơi, nhiều vùng của
đất nước, trọng điểm là những vùng trung tâm về kinh tế, chính trị, văn hoá của
Trung ương và địa phương, nơi nhạy cảm về chính trị hoặc ở các khu vực, địa bàn
mà cơ sở chính trị của địa phương yếu kém.
Nhận diện đúng và chính xác DBHB của các thế lực thù địch, phản động, kịp thời có những giải pháp ứng phó hiệu quả là điều hết sức cần thiết hiện nay của chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét