NHN
Đã 40 năm trôi qua kể từ khi Trung Quốc
huy động 60 vạn quân gồm nhiều quân đoàn chủ lực với sự yểm trợ của hàng ngàn
xe tăng, trọng pháo ồ ạt mở cuộc tiến công xâm lược vào 6 tỉnh biên giới phía
Bắc nước ta ngày 17/2/1979. Luận điệu mà chính quyền Bắc Kinh đưa ra khi đó là
,
họ tiến hành cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ” để đáp trả “những hành
động khiêu khích chống Trung Quốc của Việt Nam”, “chi viện cuộc kháng chiến của
nhân dân Campuchia”....Rằng, họ đã giành chiến thắng và cuộc chiến “phản kích
tự vệ” đó đã đạt được mục đích đề ra”.v.v. và v.v..
Tuy nhiên, sau 40 năm, ngày càng có
nhiều người Trung Quốc, nhất là các học giả và những người lính đã từng tham
gia cuộc chiến tranh năm ấy nhận rõ sự thực, dũng cảm nói lên những tiếng nói
phản bác lại những điều mà họ đã ngộ nhận; công bố và phân tích về những thực
tế phũ phàng của “cuộc chiến tranh vô nghĩa” trái đạo lý ấy.
Ngày 16/2/1979, Hội nghị những người
lãnh đạo số 1 (Bí thư) các tỉnh ủy kết thúc; sáng sớm ngày 17/2 cuộc “Chiến
tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” bắt đầu.
Cuộc chiến tranh diễn ra trên 3 mặt
trận (chiến khu): Cam Đường – Lào Cai – Sapa; Sóc Giang – Cao Bằng – Đông Khê
và Đồng Đăng – Lạng Sơn – Lộc Bình. Theo số liệu của Trung Quốc, số quân được
triển khai tại biên giới khoảng 60 vạn, 1.000 xe tăng, nhưng lực lượng vượt
biên giới tham gia chiến đấu thực tế chỉ khoảng một nửa (30 vạn).
Thiệt hại lớn ngoài dự kiến
Theo tài liệu “Chiến tranh Trung – Việt,
bước ngoặt của Chiến tranh Lạnh”, mức độ đẫm máu, ác liệt của cuộc chiến tranh
này đến giờ vẫn khiến người ta “rùng mình kinh sợ”.
Hai bên trong
thời gian ngắn thây chất như núi, máu chảy thành sông mà phần lớn là của người
Việt Nam vì ưu thế chiến tranh trước sau đều thuộc về phía Trung Quốc. Trung
Quốc dùng 30 vạn người để đánh 10 vạn người Việt Nam.
Trong các trận đánh tiến công cụ thể,
Trung Quốc thường sử dụng binh lực đông gấp từ 5 đến 7 lần để bao vây tấn công
quân Việt Nam. Trung Quốc cũng chiếm ưu thế áp đảo về hỏa khí, đạn dược. Do máy
bay, tên lửa, xe tăng không đảm đương vai chính trong chiến tranh nên pháo cỡ
nòng lớn trở thành vũ khí sát thương có
hiệu quả nhất của cả hai bên.
Trong cuộc chiến tranh này Trung Quốc đã
lần lượt đưa vào lãnh thổ Việt Nam 48 trung đoàn pháo binh với hơn 2.880 khẩu
pháo cỡ nòng lớn; trong khi Việt Nam chỉ có 9 trung đoàn pháo với 324 khẩu pháo
cỡ lớn chống lại. Quân Trung Quốc đã bắn 883.381 quả đạn cỡ trên 82mm, lượng
đạn bắn bình quân mỗi ngày nhiều gấp 6 lần Chiến tranh Triều Tiên; phía Việt
Nam chỉ bắn lượng đạn không tới 1/10 số đạn Trung Quốc đã bắn”.
Cũng theo số liệu tổng kết của Cục Hậu
cần Quân khu Côn Minh: “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” Tháng 2 năm
1979 chỉ kéo dài 1 tháng (họ tính từ 17/2 đến 16/3/1979), nhưng tổng cộng đã
tiêu hao 1,06 triệu quả đạn pháo các cỡ, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn
nhọn; 268 xe quân sự (trong đó có 48 xe tăng) bị phá hủy, hư hỏng; bị chết
8.531 người, bị thương hơn 23.000, bị bắt làm tù binh 239, bình quân mỗi ngày
có 1 trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến.
“Thương vong lớn ngoài dự đoán là một trong
những nguyên nhân khiến Trung Quốc phải kết thúc sớm cuộc chiến. Trong 2 ngày
đầu, Trung Quốc đã mất hơn 4.000 quân, đến mức quân y không kịp trở tay, nhiều
người bị thương rồi chết cho mất máu vì không được cấp cứu.
Khi bước vào giai đoạn tác chiến giằng
co, tỷ lệ thương vong rất cao, thường là 90% đối với các đại đội xung kích,
những đại đội này khi rút quân chỉ còn hơn chục người sống sót, mỗi tiểu đội
chỉ còn 1-2 người”…
Dù huyênh hoang về thắng lợi trong chiến
tranh, nhưng tài liệu của Trung Quốc cũng phải thừa nhận: “Điều không thể phủ
nhận là người Việt Nam không im lặng chịu trận. Binh sĩ Việt Nam kinh nghiệm
phong phú, từng trải chiến trận trong 3 ngày đầu tiên đã khiến quân đội Trung
Quốc thương vong nặng nề, 10 sĩ quan chỉ huy cấp sư đoàn bị chết, chiếm một nửa
tổng số cán bộ cấp sư đoàn bị chết trong toàn bộ cuộc chiến tranh; nhất là ở
khu vực Cao Bằng, du kích Việt Nam đã giáng cho lực lượng vận tải hậu cần những
đòn đau.
Người Việt Nam sử dụng chiến thuật phục
kích, tập kích khiến lực lượng tiến công của quân đội Trung Quốc trở nên khá
hỗn loạn. Ở các đơn vị tác chiến quân đoàn 13, 43 và 54 thậm chí xảy ra sự kiện
khi bị phục kích sĩ quan bỏ lại đơn vị tháo chạy; một tiểu đoàn của trung đoàn
448, quân đoàn 50 bị bao vây có 219 người bị bắt làm tù binh, trong khi phía
Việt Nam không có bất cứ trung đoàn nào có số người bị Trung Quốc bắt nhiều như
thế”.
Cuộc chiến phi nghĩa theo ý đồ cá nhân
Trang
web Honggehui của Trung Quốc ngày 25/2/2014 đăng bài “35 năm Chiến tranh Trung
– Việt: ai là người thắng?”.
Tác giả bài báo bày tỏ nghi ngờ về luận
điệu tuyên truyền Trung Quốc tiến hành chiến tranh đánh Việt Nam là để “Phản
kích tự vệ”, cho rằng: “Mấy chữ Phản kích tự vệ sử dụng khi đó có lẽ rất không
thiết thực. Đánh nhau, mọi người đều biết, cần phải tránh đánh cả hai phía, đó
là việc lớn mà binh gia phải xét đến đầu tiên. Vì sao Việt Nam lại vừa giúp lực
lượng nổi dậy của Hun Sen đánh Polpot, lại đồng thời khiêu khích Trung Quốc ở
biên giới? Điều này rất không hợp lẽ thường!”
Khi đó tuyên truyền Việt Nam gây bao
nhiêu vụ khiêu khích. Cứ cho là tuyên truyền hoàn toàn có thực đi chăng nữa thì
họ cũng đâu có đánh sang đất ta? Sự việc hoàn toàn có thể giải quyết thông qua
các con đường ngoại giao, chính trị. Lẽ nào chúng ta chỉ vì người hàng xóm đổ
nước rửa chân trước cửa nhà mình mà dỡ nhà người ta, đốt nhà họ? Lẽ nào chỉ vì
người bạn học thụi mình một quả mà mang dao ra đâm họ mười mấy nhát? Phát động
một cuộc chiến tranh, đi “dạy một bài học” cho người bạn nhỏ không hề xâm lược
nước mình, liệu có thể gọi đó là “tự vệ” được sao?...
Tác giả cho rằng, trên thực tế, cuộc
chiến tranh năm 1979 hoàn toàn là phóng đại sự việc cho thích ứng với nhu cầu
của người Mỹ, chỉ gây thiệt hại đau khổ mà không hề có chút lợi gì cho nhân dân
hai nước Trung – Việt... Cuộc chiến tranh này khiến Trung Quốc cởi bỏ sự ràng
buộc của ý thức hệ, một cuộc chiến đã khiến Trung Quốc được ngả vào hệ thống
kinh tế thế giới do phương Tây chủ đạo, giành được cơ hội phát triển hiếm có.
Xét về ý nghĩa đó, cuộc “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” không có
gì khác là bản báo công. Thậm chí có tin đồn nói, ông X. (ám chỉ Đặng Tiểu
Bình) chạy sang Mỹ nói sẽ “dạy cho Việt Nam một bài học”, nói nào là “trẻ con
không vâng lời, phải quất vào mông”. Đó là những lời lẽ gì vậy? Chỉ vì Trung
Quốc nước lớn hơn Việt Nam thì có tư cách dạy dỗ nước nhỏ sao?...
Thực ra, ý đồ thực sự của người nào đó
dạy dỗ người bạn nhỏ Việt Nam vốn không nằm ở chỗ “tự vệ”. Đánh xong, quân
quyền đã nắm được; Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng đều bị rớt đài. Đối ngoại làm
hài lòng người Mỹ; đối nội thì di chuyển được mâu thuẫn xã hội, loại bỏ được
những người khác chính kiến, thế thì ngu gì mà không đánh...Như lời tướng Lưu Á
Châu đã nói: phát động chiến tranh Trung – Việt là vì “cần phải xác lập quyền
uy tuyệt đối trong đảng. Muốn đánh nhau, muốn cải cách thì phải có quyền uy;
biện pháp xác lập quyền uy nhanh nhất là đánh nhau”. Cuộc chiến tranh này là
đánh vì người Mỹ. Vả lại, người nào đó quả thật còn rất thích dạy dỗ người khác”.
Đồng tình với quan điểm này, Tiến sĩ
Cao Thiện Văn, nhà phân tích hàng đầu của Công ty “An Tín Chứng khoán” Thiên
Tân (Essence Securities) ngày 28/7/2018 đã có bài diễn thuyết trong hơn 70 phút
với chủ đề chính là quan hệ Trung – Mỹ và Chiến tranh thương mại Trung – Mỹ
được đưa lên Youtube và được nhiều trang mạng đăng lại.
Tiến sĩ Cao Thiện Văn công khai nói:
“Tiến hành cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ” đánh Việt Nam khi xưa là
bản lập công về ngoại giao để Mỹ chấp nhận Trung Quốc”. Ông nói: “Đặng Tiểu
Bình sau khi được phục hồi đã làm một việc rất quan trọng, đó là quyết định
đánh Việt Nam, ảnh hưởng đến mấy chục năm lịch sử sau đó của Trung Quốc. Trước
năm 1979, Trung Quốc đã bỏ nhiều công sức giúp Việt Nam đấu tranh chống Mỹ;
trong một thời gian dài quan hệ Trung – Việt như anh em một nhà. Đặng Tiểu Bình
từng nói, Trung Quốc mở cửa đối ngoại là mở cửa với Mỹ, không mở với Liên Xô
hay châu Âu, cũng chẳng với Mỹ La tinh. Vấn đề là ở chỗ, tiền đề mở cửa với Mỹ
là phải được Mỹ chấp nhận. Giữa Trung Quốc và Mỹ tồn tại rất nhiều vấn đề, bao
gồm viện Triều chống Mỹ, giúp Việt Nam, làm sao Mỹ có thể chấp nhận Trung
Quốc?
Đánh Việt Nam chính là lập công dâng
lên Mỹ, khiến Mỹ vui vẻ giang rộng vòng tay và chấp nhận Trung Quốc. Sau khi
Đặng thăm Mỹ và hội đàm với Tổng thống Jimmy Carter, đã nói với Carter: chúng
tôi quyết định đánh Việt Nam; sau đó Mỹ đưa cho một bản danh mục liệt kê những
thứ trang bị quân sự Mỹ cung cấp cho Trung Quốc để đánh Việt Nam. Đẳng cấp của
số viện trợ quân sự Mỹ giành cho Trung Quốc khi đó vượt quá đẳng cấp những thứ
Mỹ dành cho các đồng minh của họ. Mỹ nhanh chóng nâng cấp Trung Quốc thành quan
hệ hữu hảo phi đồng minh, cho Trung Quốc được hưởng đãi ngộ cao hơn cả các nước
đồng minh trên nhiều phương diện.
Vì sao Mỹ lại làm như thế? Có hai
nguyên nhân: Một là, Mỹ bị xơi quả đắng ở Việt Nam nên căm thù; hai là, Mỹ và
Liên Xô nước lửa không dung nhau về ý thức hệ, Việt Nam là anh em của Liên Xô;
Trung Quốc đánh Việt Nam cho thấy sự cắt đứt hoàn toàn của Trung Quốc với Liên
Xô và chuyển hướng sang Mỹ. Điều này đã đặt cơ sở nền móng cho cải cách mở cửa
của Trung Quốc; vì vậy cải cách mở cửa của Đặng Tiểu Bình không phải được quyết
định sau khi suy nghĩ giản đơn, mà là xem xét toàn diện cục diện toàn cầu và có
sự mạo hiểm nhất định. Liên Xô không động binh với Trung Quốc bởi vì binh lực
của họ bố trí ở biên giới Trung – Xô rất mỏng; kỳ thực Liên Xô không hiểu rõ về
quan hệ Trung – Mỹ, sợ ném chuột vỡ bình quý, không dám ra tay hành động. Về
phía Trung Quốc mà xét, đó là Đặng Tiểu Bình đem vận nước ra đánh cược, rất mạo
hiểm”.
Đã 40 năm trôi qua kể từ khi xảy ra
cuộc Chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979; hai nước Việt Nam và Trung Quốc
đã bình thường hóa quan hệ, Hiệp định phân định biên giới trên bộ đã được ký
kết và công tác phân giới cắm mốc đã hoàn thành, biên giới trên bộ đã thực sự
là đường biên giới hòa bình, hợp tác. Hai nước tuy còn một số bất đồng, tranh
chấp trên Biển Đông, nhưng hai bên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, duy trì cơ
chế trao đổi, đàm phán để giải quyết. Quan hệ về chính trị, ngoại giao hai bên
chặt chẽ; hợp tác về kinh tế, thương mại đang phát triển rất nhanh. Hai nước
hiện nay đang tích cực phát triển quan hệ hợp tác toàn diện trên các mặt...
Tuy nhiên, lịch sử là lịch sử! Chiến
tranh biên giới phía Bắc là một câu chuyện buồn trong lịch sử, một câu chuyện
buồn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Dẫu vậy, nó vẫn là lịch sử, cầng phải
được nhìn nhận với sự thật đầy đủ. Sẽ không thể không nhắc đến ngày 17/2/1979,
ngày mà hàng ngàn chiến sĩ, đồng bào chúng ta đã hy sinh để bảo vệ biên cương
của Tổ quốc. Cần thiết phải nhắc để nhân dân ta và các thế hệ sau ghi nhớ, biết
ơn và tôn vinh những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh để bảo vệ biên cương Tổ
quốc, như chúng ta đã và sẽ vẫn tôn vinh bao nhiêu anh hùng liệt sĩ trong các
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh biên giới tháng 2/1979
không thể bị lãng quên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét