NHN
Trong gần 60 năm hoạt động
cách mạng (1911-1969), Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã có hơn một lửa thời gian sống và
làm việc ở nước ngoài. Người đã đặt chân đến khoảng 30 nước ở hầu hết các châu
lục, với những tư cách khác nhau, vào nhiều thời điểm và hoàn cảnh khác nhau.
Những hoạt động
ngoại giao quốc tế của Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong cuộc đời và
sự nghiệp cách mạng của Người. Nó gắn liền với mục tiêu cứu nước, giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân loại bị áp bức. Qua đó, Người đã gắn cách mạng Việt
Nam với cách mạng thế giới, tìm bạn đồng minh ở các nước, ngay cả ở nước đang
xâm lược mình. Điều này các bậc tiền bối yêu nước chưa nghĩ đến, chưa làm được.
Nhân kỷ niệm 116 năm ngày sinh nhật Bác, chúng ta cùng điểm lại những sự kiện
chính trong cuộc đấu tranh ngoại giao tại nước Pháp năm 1946 của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Qua đó chúng ta càng trân trọng và tự hào hơn về nghệ thuật ngoại
giao Hồ Chí Minh trong bối cảnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam năm 1946
đầy khó khăn, thử thách.
Đầu năm 1946, tình
hình cách mạng Việt Nam vẫn hết sức khó khăn, Pháp và Tưởng đã bắt tay nhau ký
hiệp ước Trùng Khánh 28/02/1946, hợp thức hoá việc đưa quân Pháp ra miền Bắc
Việt Nam, đặt Việt Nam trước “việc đã rồi”. Nhận rõ âm mưu của Pháp và Tưởng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định ký Hiệp định sơ bộ 06/03/1946 với thực dân
Pháp. Nội dung bản Hiệp định khẳng định Việt Nam không trở lại chế độ thuộc địa
của Pháp. Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có chính phủ, nghị
viện, quân đội, tài chính riêng…. Trước khi ký kết Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu phải có đại diện Mỹ, Anh, Tưởng chứng kiến lễ ký Hiệp định, điều
này nhằm mục đích nâng cao uy tín của nhà nước ta lúc bấy giờ.
Với bản chất hiếu
chiến xâm lược, ỷ vào sức mạnh quân sự, giới cầm quyền Pháp không có ý định
thực thi nghiêm chỉnh những điều khoản đã ký kết trong Hiệp định sơ bộ
06/03/1946. Mặc dù vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì đấu tranh đòi mở cuộc
đàm phán chính thức tại Pari nhằm duy trì cục diện hoà hoãn và nâng cao vị trí
quốc tế của Việt Nam.
Trước sức ép của
dư luận Pháp và phản ứng mạnh mẽ của nhân dân ta, ngày 24 tháng 03 năm 1946, đô
đốc Đác giăng li ơ đã tổ chức cuộc hội kiến với Chủ Tịch Hồ Chí Minh tại vịnh
Hạ Long. Tại đây Người đã tranh luận với Đác giăng li ơ nhiều vấn đề. Đác giăng
li ơ đề nghị họp trù bị ở Đà Lạt, nhưng Người kiên quyết đòi họp chính thức
ngay tại Pari. Mặc dù Đác giăng li ơ rất ngoan cố, nhưng trước những lời lẽ hết
sức thuyết phục không thể bác bỏ được của Người lại được Lơ c léc và Xanh tơ ni
ủng hộ, Đác giăng li ơ buộc phải đồng ý đàm phán chính thức tại Pháp vào hạ
tuần tháng 05 năm 1946.
Có thể nói đây là
một cơ hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng đạt được để mở ra mặt trận
ngoại giao quan trọng tiến công vào dư luận nước Pháp. Vì vậy, Người đồng ý cử
một phái đoàn Quốc hội Việt Nam sang thăm Pháp, do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn
đầu. Ngày 16/04/1946, khi phái đoàn lên đường, Người đã dặn dò “Phải làm tốt ba việc là: Đoàn kết, cẩn thận,
làm cho người Pháp hiểu ta, để gây tình hữu nghị giữa hai dân tộc”. Thành
công trong chuyến đi của phái đoàn Quốc hội là đã cố gắng làm sáng tỏ tình hình
thực tế ở Việt Nam, đồng thời chuẩn bị cho cuộc đi thăm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và phái đoàn Chính phủ ta sang đàm phán chính thức.
Như vậy, từ đầu
cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố gắng và thành công trong việc mở
rộng cuộc đấu tranh ngoại giao với những kết quả bước đầu đáng trân trọng. Cuộc
đấu tranh ngoại giao sẽ còn tiếp tục gay go, phức tạp ở phía trước.
Ngày 31/05/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Chính phủ ta rời Hà Nội đi thăm và đàm phán ở Pháp.
Người đi Pháp với tư cách là THƯỢNG KHÁCH
của Chính phủ Pháp, đồng thời để chỉ đạo cuộc đấu tranh ngoại giao của Chính
phủ ta. Chuyến đi thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh ban đầu gặp “trục trặc”.
Nội các Phê Lich Goanh vừa đổ, ở Pari hiện chưa có Chính phủ để đón Chính phủ
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Vì vậy, trên đường bay Người được bố trí tạm thời
lưu lại Bi a rít trong khi chờ đợi một cuộc đón tiếp chính thức tại Pa ri.
Trong thời gian ở
Bi a rít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp nhiều đoàn từ Pa ri và những vùng lân
cận tới thăm hỏi và chúc mừng, như Rơ nê lécni tơ, phóng viên báo Luy ma ni tê
(nhân đạo). Phái đoàn Đảng Cộng sản do Sac lơ ti ông, uỷ viên trung ương, Bộ
trưởng hàng không dẫn đầu. Các đoàn thể chính trị , xã hội, văn hoá Pháp, đại
biểu Việt kiều…. Qua gần 10 ngày tiếp xúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những đã
làm cho người Pháp quan tâm, hiểu rõ được lập trường của Việt Nam mà còn truyền
đến nhân dân Pháp một tình cảm, một ấn tượng sâu sắc về lòng chân thành và hữu
nghị của Việt nam đối với họ.
Trưa ngày
22/06/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rời Bi a rít đi Pa ri theo lời mời của
Chính phủ mới, do Bi đôn làm thủ tướng. Lễ đón Chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà ở Pa ri rất trọng thể. Bộ trưởng nước Pháp hải ngoại M. Mu tê đến tận chân
cấu thang máy bay ôm hôn Chủ tịch. Hai lá cờ Việt-Pháp rất lớn được từ từ kéo
lên cao trong tiếng nhạc quốc ca của hai nước.
Trong thời gian ở
Pa ri, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc rộng rãi và hữu nghị với nhân dân Pháp
và nước ngoài, các hãng thông tấn, các thương gia Pháp…Người cũng tiếp xúc
chính thức với chính phủ Pháp để tỏ rõ thiện chí của ta. Trong cuộc tiếp xúc
này 2/7/1946 giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với thủ tướng Bi đôn, Chỉ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định về sự thống nhất của đất nước Việt Nam cũng như sự thống
nhất của nước Pháp. Người đã tỏ lòng thực sự muốn có quan hệ tốt với Pháp. Bởi
vì, theo Người thì dân tộc Việt Nam và dân tộc Pháp đều yêu chuộng hoà bình.
Cuộc họp báo ngày
12 tháng 7 năm 1946 là một cuộc họp báo quan trọng nhất trong các cuộc tiếp xúc
với nhà báo do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì. Trong cuộc họp báo này, Người đã
tuyên bố 6 điểm:
1. Việt Nam đòi
quyền độc lập. Độc lập không phải là hoàn toàn tuyệt giao với Pháp, mà ở trong
liên hiệp Pháp, vì như thế thì lợi cho cả hai nước về mặt kinh tế và văn hoá.
Việt Nam vui lòng cộng tác với Pháp.
2. Việt Nam tán
thành liên Bang Đông Dương, nhưng quyết không chấp nhận một chính phủ Liên
bang.
3. Nam Bộ là một
bộ phận của nước Việt Nam. Không ai có quyền chia rẽ. Không lực lượng nào có
thể chia cắt Nam Bộ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
4. Việt Nam sẽ
bảo hộ tài sản của kiều dân Pháp, nhưng người Pháp phải tuân theo pháp luật
Việt Nam và Việt Nam giữ quyền mua lại những sản nghiệp có quan hệ với quốc
phòng.
5. Nếu cần cố vấn
thì người Việt Nam sẽ dùng người Pháp trước.
6. Việt Nam có
quyền phái Đại sứ và lãnh sự đi các nước.
Sự có mặt của
Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh trên đất Pháp với tư cách thượng khách của Chính phủ
Pháp quả là một sự kiện có ý nghĩa lớn phản ánh sự thắng lợi của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Điều thú vị là trên đất Pháp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã gặp lại An be Xa rô (Nguyên toàn quyền Đông Dương hai lần)
người mà hơn 20 năm trước đã đe doạ “sẽ
không tha thứ cho những người nào từ Pa ri tới Mátxcơva, và từ Mátxcơva đến
Quảng Châu, từ Quảng Châu đến Đông Dương gây rối loạn”.
Ngày 4 tháng 7
năm 1946, trong buổi chiêu đãi của Đác giăng li ơ, Xa rô đã gặp lại con người
mà mình đã đe doạ và đã “ thực hiện, đúng con đường ông ta đã vạch ra. Xa rô
vồn vã bắt tay Người và nói chua chát “ Ồ
ồ, anh đấy à? Tên đạo tặc năm xưa; nghĩ lại, Tôi đã trải qua một phần lớn của
cuộc đời để chạy theo anh”.
Ngày 6/7/1946,
cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện 2 Chính phủ Việt Nam và Pháp đã diễn ra
tại Phông tenơ b lô. Cuộc hội đàm đã xoay quanh các vấn đề địa vị của Việt Nam
trong khối liên hiệp Pháp, vấn đề ngoại giao của Việt Nam với các nước, vấn đề
liên bang Đông Dương, vấn đề thống nhất 3 kỳ, việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ,
những vấn đề kinh tế-văn hóa và thảo một dự án hiệp ước. Lập trường của Pháp ở
Hội nghị phôngtenơblô không khác gì hội nghị trù bị ở Đà Lạt là đòi đặt lại chế
độ Toàn quyền ở Việt Nam, tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam, Việt Nam không có ngoại
giao riêng…Còn lập trường của Việt Nam là độc lập dân tộc và hợp tác bình đẳng
với Pháp. Những điểm cụ thể của lập trường đó là: Việt Nam không chấp nhận bất
cứ chính phủ Liên Bang nào, Việt Nam độc lập trong liên hiệp Pháp. Trên lĩnh
vực kinh tế, văn hoá, Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Pháp; Nam Bộ là một bộ phận
của nước Việt Nam thống nhất, không thể chia cắt; Việt Nam có quyền đại sứ với
tất cả các nước trên thế giới…
Cuộc đàm phán kéo
dài hơn hai tháng ( từ 6/7 đến 10/9/1946), cuối cùng không đi đến thoả thuận
nào do lập trường hai bên xa nhau. Cuộc đàm phán chấm dứt càng làm cho tình
hình bang giao Việt- Pháp thêm căng thẳng. Nguy cơ một cuộc chiến tranh đến
gần. Cần có một quyết định nhanh chóng kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng,
củng cố thêm lực lượng cách mạng; làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy
rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam và dã tâm xâm lược của Pháp. Cũng như hồi
đầu tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại quyết định tiếp tục khôn khéo
thoả hiệp với Pháp, nhượng bộ chúng thêm một bước nữa.
Ngày 14 tháng 9
năm 1946, Hồ Chí Minh gặp lại M. Mu Tê và G. Bi đô. Đêm 14/9/1946 Người lại
cùng Mu Tê và Xanh tơ ni xem xét các điều khoản của bản dự thảo và ký kết với
Mu Tê bản Tạm ước Việt- Pháp 14/9/1946 với các nội dung chính:
+ Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách hợp tác như hiệp định sơ bộ
đã nêu. Cuộc đàm phán sẽ tiếp tục được triển khai chậm nhất vào tháng Giêng năm
1947.
+ Chính phủ Việt
Nam bảo đảm các quyền tự do, dân chủ, quyền lợi kinh tế, văn hoá của người Pháp
ở Việt Nam.
+ Chính phủ Pháp
sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo đảm các quyền tự do, dân chủ
cho nhân dân.
+ Việt Nam và
Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên truyền không thân thiện.
+ Việc trưng cầu
dân ý ở Nam Bộ do 2 bên quy định thời gian và cách thức.
Đây là sự nhân
nhượng cuối cùng của ta nhằm cưú vãn tình thế hết sức khó khăn của nước ta lúc
đó.
Sau khi ký tạm
ước 14/9/1946. ngày 16/9/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Pa ri về nước bằng đường
biển. Ngày 20/10/1946 Người về đến tổ quốc trong sự chờ đón, tin tưởng của toàn
thể dân tộc.
Nói về ý nghĩa
bản tạm ước, báo Sự thật của Đảng ta ra ngày 20/09/1946 viết: “Ý nghĩa của Hồ chủ Tịch khi ký bản thoả hiệp
tạm thời ngày 06/03/1946 là nhất quyết làm cho cuộc bang giao Việt - Pháp tiến
bộ hơn, tình giao hảo giữa hai dân tộc dân chủ thân mật hơn và để thực hiện
điều khoản của bản thoả hiệp tạm thời có thể hòa hoãn những gay go giữa Việt -
Pháp và giành thêm thời gian để bồi bổ thực học và đón lấy một tình thế tốt
hơn, để tỏ cho nhân dân Pháp thấy rằng dân tộc ta rất muốn thoả thuận với nhân
dân Pháp, và do đó tăng thêm tình cảm của nhân dân Pháp và các dân tộc tư do
khác đối với nước ta”.
Ngày 23/10/1946,
các báo đăng bản Tuyên bố với quốc dân của Chủ Tịch Hồ Chí Minh sau khi đi Pháp
về, nêu những việc đã làm và công việc sắp tới. Người đã nêu tình cảm tha thiết
với nhân dân, cũng là trách nhiệm của Người “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ, là một ngày
tôi ăn không ngon, ngủ không yên.”.
Vào những ngày
tháng cuối năm 1946 lợi dụng tình hình nước Pháp gần như trong tình trạng không
có chính phủ, bọn thực dân hiếu chiến ở Đông Dương đẩy mạnh hoạt động khiêu
khích, gây chiến âm mưu đặt chính phủ mới ở Pháp trước việc đã rồi.
Trong tháng 11 và
tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tiếp gửi điện cho Chủ tịch Quốc
hội Pháp Vanh Xăng Ô ri ôn, kịch liệt tố cáo chính sách vũ lực và phản bội của
thực dân Pháp ở Đông Dương, đồng thời khẳng định thiện chí của Chính phủ ta
muốn hợp tác với Pháp để phục hồi lại tình hình trước ngày 20/11/1946. những bức điện thiện chí ấy đã
không được đáp ứng. Ngày 18 và 19 tháng 12 năm 1946, chúng gửi liên tiếp ba tối
hậu thư, đòi tước vũ khí các lực lượng của ta. Mặc dù vậy, cho đến tận ngày
01/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ mối liên hệ với đại diện chính phủ
Pháp tại Hà Nội. Người còn thúc dục Xanh tơ ni tìm ra giải pháp nhằm “Cải thiện bầu không khí” nhưng Xanh tơ
ni đã không làm được gì trong điều kiện khẩn cấp như vậy. Sự nhân nhượng của
chúng ta đã vượt quá giới hạn có thể. Ngày 20/12/1946, lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi trên cả nước. Kêu gọi cả dân
tộc đứng lên đấu tranh vì độc lập, tự do.
Quá trình đấu
tranh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam năm 1946 với cuộc hành trình ngoại
giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
trên đất Pháp có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ
bản của cuộc đàm phán, nhưng đã làm cho nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ hơn
vấn đề Việt Nam và làm cho số đông người Pháp đồng tình, ủng hộ nền độc lập của
Việt Nam. Đó là nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử mới,
một di sản lớn Người để lại cho hành trang dân tộc Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét