NHN
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã
sản sinh ra một văn hóa giữ nước Việt Nam, rồi đến lượt chính văn hóa giữ nước
ấy, góp phần quyết định cho lịch sử dựng nước và giữ nước vẫn là dòng chảy liên
tục từ quá khứ tới hiện tại và tương lai, giữ cho dân tộc Việt Nam mãi trường
tồn.
Lúc gặp chiến tranh, thái độ chung của
chúng ta luôn là ngăn chặn xung đột vũ trang, tìm mọi cách trì hoãn chiến
tranh toàn cục. Đây là thái độ nhất quán xuyên suốt từ thời Lý, qua thời Trần
cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Vì ta là nước nhỏ, dân ít, tiềm lực kinh tế
có hạn mà trước mỗi nguy cơ chiến tranh chúng ta luôn tìm mọi cách tránh, tìm
mọi cách hòa hoãn có thể cho đến khi không thể tránh được thì quyết đánh và
quyết thắng. Đó vừa là nghệ thuật quân sự, vừa là văn hóa giữ nước.
Tình thế cách
mạng Việt Nam những năm 1945 – 1946, khi chúng ta
phải đương đầu cùng một lúc với nhiều kẻ thù đòi hỏi những nhà lãnh đạo đất
nước phải vô cùng sáng suốt, tìm ra quy luật về phương pháp để chiến thắng kẻ
thù hùng mạnh hơn mình. Trong bối cảnh ấy, con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn
hiên ngang vượt qua dông bão thác ghềnh, thực tiễn đó chính là sự thể
hiện quá trình lãnh đạo cách mạng khôn khéo, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, kế thừa văn hóa đánh giặc, nghệ thuật giữ nước của cha ông ta từ ngàn
xưa.
Với việc phát động Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược ngày 19 tháng 12 năm 1946, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại cho dân tộc ta một bài học kinh nghiệm quý báu về nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh cách mạng – nghệ thuật mở đầu cuộc kháng chiến trên phạm vi cả
nước. Chúng ta biết rằng, nếu trong khởi nghĩa vũ trang, việc tận dụng thời cơ
trở thành một khoa học, một nghệ thuật có ý nghĩa quyết định thắng lợi như Cách
mạng tháng Mười Nga, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam, thì trong chiến tranh cách
mạng việc quyết định thời điểm bùng nổ và kết thúc chiến tranh cũng trở thành
một khoa học và nghệ thuật có ý nghĩa quyết định giành thắng lợi.
Trong khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng, muốn lợi dụng và tranh thủ được thời cơ, điều
quan trọng nhất là phải chuẩn bị chu đáo về thực lực cách mạng. Những khó khăn
chồng chất, thậm chí vận mệnh đất nước rơi vào tình huống như “ngàn cân treo
sợi tóc” sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ ra đời, và tình hình so
sánh lực lượng giữa ta và thực dân Pháp những năm 1945 – 1946 chưa cho phép
Đảng và Nhà nước ta phát động cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước. Để có thể
mở đầu cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc, đòi hỏi phải có thời gian chuẩn
bị, xây dựng lực lượng. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định của
thực lực cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, khôn khéo tạo ra
thời kỳ tạm thời hòa hoãn để tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị
bước vào cuộc chiến tranh lâu dài mà ta biết khó tránh khỏi.
Muốn tìm
kiếm giải pháp hòa hoãn thì cần phải có ít nhất 2 yếu tố: thứ nhất, cả 2 bên
chưa đủ sức lực để loại bỏ nhau; tương quan lực lượng khá cân bằng. Thứ hai:
phải có sách lược khôn khéo để tạm thời tránh sự hung hãn và hiếu chiến của kẻ
thù. Về phía cách mạng Việt Nam, ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước VNDCCH non trẻ ra
đời với biết bao khó khăn chồng chất của nạn đói, nạn dốt và đặc biệt là nạn
ngoại xâm. Lúc này nếu chấp nhận cuộc chiến đấu ngay với thực dân Pháp thì, một
mặt chúng ta chưa chuẩn bị được lực lượng, đồng thời có thể cùng một lúc phải
chiến đấu với nhiều kẻ thù, điều này vô cùng bất lợi với chúng ta.
Về phía Pháp, dã tâm
quay trở lại xâm lược nước ta được thể hiện rõ bằng hành động ngày 23 tháng 9
năm 1945, với sự trợ giúp của đế quốc Anh, và Phát xít Nhật, thực dân Pháp đã
nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi sau đó mở rộng ra các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.
Tuy nhiên, dù rất hiếu chiến nhưng thời điểm này thực dân Pháp vẫn chưa đủ sức
mở rộng chiến tranh quy mô lớn trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Thực dân Pháp đánh
giá phải đến tháng 1 năm 1947 mới đủ sức tiến hành cuộc chiến tranh trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
Có thể thấy, cục diện
những năm 1945 – 1946 cả ta và Pháp đều chưa đủ lực lượng có thể áp đảo đối
phương. Điều đó dẫn đến tình thế tạm thời hòa hoãn. Nhưng muốn duy trì được
tình thế hòa hoãn đòi hỏi chúng ta phải có sách lược khôn khéo, mềm dẻo để
tránh sự đụng độ có thể xảy ra bất cứ lúc nào bởi sự hiếu chiến cùng dã tâm xâm
lược của thực dân Pháp. Lúc này thời gian chính là lực lượng, ai tranh thủ tận
dụng tốt thời gian để chuẩn bị, củng cố lực lượng người đó sẽ giành chiến
thắng. Trong cuộc chạy đua với thời gian này, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã thể hiện rõ bản lĩnh, tài năng, trí tuệ của mình, đặc biệt trong bối cảnh
đất nước vô vàn khó khăn, cùng một lúc phải đương đầu với nhiều kẻ thù hùng
mạnh…những kẻ thù ấy tuy có mưu đồ riêng, nhưng đều tập chung vào việc lật đổ,
tiêu diệt chính quyền non trẻ của ta. Hơn lúc nào hết, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cần tỉnh táo, sáng suốt tìm ra phương sách đối phó thích hợp. Việc quan
trọng hàng đầu có ý nghĩa chiến lược lúc này là phải xác định đúng kẻ thù chính để có sách lược phân hóa nhằm từng
bước loại bỏ những kẻ thù của cách mạng.
Phân tích tình thế
cách mạng, từ trước khi diễn ra Tổng khởi nghĩa Tháng tám, Đảng ta đã nhận
định: sự mâu thuẫn giữa Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân
nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông Dương. Từ đó, Đảng ta xác định kẻ
thù chính, trước mắt là thực dân Pháp, phải tập chung ngọn lửa đấu tranh vào chúng,
đồng thời tìm mọi cách tạm thời hòa hoãn để loại bỏ những kẻ thù khác và tập
chung xây dựng thực lực chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh lâu dài mà ta biết sẽ
không thể tránh khỏi, nhưng chấp nhận chiến đấu vào thời điểm nào lại do tài
năng, sự sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng cần nói thêm
rằng, ngay tại Quốc dân đại hội Tân Trào trước Tổng khởi nghĩa, một số đại biểu
đã bày tỏ nguyện vọng muốn chiến đấu ngay chống lại những hành động khiêu khích
và xâm lược của thực dân Pháp. Tuy nhiên trong điều kiện đất nước đầy rẫy thù
trong, giặc ngoài và ở thế “ngàn cân treo sợi tóc” Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
phải triệt để thực hiện chủ trương tìm kiếm bạn “đồng minh” ngay từ trong hàng
ngũ kẻ thù, dù rằng “đồng minh” đó là tạm thời, bấp bênh và có điều kiện, đồng
thời tìm cách phân hóa nội bộ kẻ thù, tập chung mũi nhọn vào kẻ thù chính và
nguy hiểm nhất.
Những ngày trước và
sau khi nhân dân ta giành được chính quyền, chúng ta đã tìm kiếm cơ hội sự ủng
hộ của cộng đồng quốc tế, nhất là Mỹ với mục đích Việt Nam có một vị trí trong
phe đồng minh chống phát xít, tạo ra thế hợp pháp về mặt quốc tế cho chính
quyền cách mạng và triệt để phân hóa hàng ngũ của chủ nghĩa đế quốc, nhất là
những người Mỹ đang có mặt ở Việt Nam thời điểm ấy. Nhân danh Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư, điện cho
Tổng thống, Bộ Ngoại giao Mỹ và Liên hiệp quốc đề nghị ủng hộ và công nhận nền
độc lập của dân tộc ta. Những hoạt động đó đã mang lại kết quả dù khiêm tốn, thiếu
tá L.A Patti đứng đầu nhóm OSS (Office of Strategie Srvices - tổ chức tình báo
và thông tin chiến lược Mỹ) đang hoạt động ở Việt Nam lúc bấy giờ, đã có những
cố gắng nhất định tạo cầu nối ngoại giao giữa chính phủ Hồ Chí Minh với nước
Mỹ, khước từ mọi sự mua chuộc và thúc ép của thực dân Pháp hòng ủng hộ chúng
trở lại xâm lược Việt Nam. Về khách quan, thái độ của người Mỹ lúc bấy giờ đã
tác động nhất định làm chậm bước tiến xâm lược trở lại của thực dân Pháp với
Việt Nam.
Tuy nhiên, thực tiễn
lịch sử cũng cho thấy, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến trước, mâu thuẫn
giữa Mỹ, Anh, Pháp chỉ là tạm thời. Trước sau do quyền lợi của chủ nghĩa đế
quốc, chúng cũng đi tới việc dàn xếp để thực dân Pháp quay trở lại xâm lược
Việt Nam và Đông Dương.
Ngày 5 tháng 10 năm
1946 Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đã gửi cho sứ quán của họ tại Trung Quốc phản ánh
thái độ của Mỹ: không phản đối mà cũng
không ủng hộ việc thiết lập nền cai trị của người Pháp ở Đông Dương. Từ
thái độ lập lờ, quanh co, người Mỹ đã dần dần ngả hẳn sang việc ủng hộ và giúp
đỡ thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Đến ngày 5 tháng 12 năm 1946, khi
một quan chức người Mỹ tên là Moffat tới Đông Dương thì Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ
đã điện chỉ thị cho ông ta là trong trường hợp có thể gặp gỡ Hồ Chí Minh thì: “Phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ Chí Minh là
một tay sai của Quốc tế cộng sản”[1].
Như vậy, cho đến cuối năm 1946, đầu năm 1947 những cố gắng ngoại giao nhằm tìm
kiếm, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, trước hết là đối với Mỹ của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đến đây cơ bản chấm dứt.
Có thể thấy, Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã biết rõ, trước sau thực dân Pháp sẽ quay trở lại xâm
lược nước ta, những hoạt động ngoại giao với Mỹ có tác động nhất định góp phần
vào việc tránh đụng độ ngay với thực dân Pháp nhằm tạo thời gian hòa hoãn cho
việc chuẩn bị thực lực của nhân dân ta.
Như đã trình bày ở
trên, nếu chúng ta chấp nhận cuộc chiến đấu sớm hơn mốc 19 tháng 12 năm 1946
thì tình thế sẽ vô cùng bất lợi cho ta, nhưng nếu kéo dài thêm thời gian hơn
nữa thì chính chúng ta cũng lâm vào thế bị động. Thời điểm cuối tháng 12 năm 1946,
đầu tháng 1 năm 1947 tình thế tạm thời hòa hoãn chỉ còn tính từng ngày. Hơn thế
nữa, vào tháng 12 năm 1946 thực dân Pháp chưa muốn tiến hành chiến tranh trên
quy mô lớn. Chúng vẫn đang chờ viện binh từ Pháp sang với ý đồ dùng một lực
lượng lớn, có ưu thế tuyệt đối áp đảo ta, hòng thực hiện ý đồ “đánh nhanh,
thắng nhanh” (Theo kế hoạch của Chính phủ Pháp, cuối tháng 1 năm 1947, chúng sẽ
gửi sang Đông Dương 14 tiểu đoàn). Trong điều kiện đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chọn ngày 19 tháng 12 năm 1946 làm thời điểm quyết định cuộc kháng
chiến trên toàn quốc là đúng lúc, không quá sớm, cũng không quá muộn.
Diễn biến tình hình
từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đến cuối năm 1946 cho thấy, chúng
ta đã chủ động tạo ra tình thế hòa hoãn, và đến nay lại hoàn toàn chủ động bước
vào cuộc chiến tranh. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, chủ động mở đầu cuộc chiến
tranh đúng lúc vừa tạo ra được thắng lợi lớn, vừa tạo đà sức mạnh, tâm thế cho
cuộc chiến tranh ở những giai đoạn tiếp theo, còn mở đầu không đúng lúc thì có
thể sẽ dẫn tới những bất lợi rất lớn.
Có thể nói, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946 đã thể
hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám
sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ mở đầu đúng lúc, chúng ta đã biến bị
động thành chủ động, đã giành được những thắng lợi lớn trong thời gian đầu toàn
quốc kháng chiến, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam
chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Những
thắng lợi ban đầu ở Thủ đô và các đô thị khác đã chứng minh một cách sinh động
việc chọn thời điểm ngày 19 tháng 12 năm 1946 mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc
là hoàn toàn chính xác, đúng lúc và kịp thời. Mặt khác, cuộc chiến đấu của quân và dân ta ngay giữa lòng
thủ đô cùng các đô thị trong những tuần đầu, tháng đầu toàn quốc kháng chiến là
một nét đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh cách mạng, nghệ thuật mở
đầu cuộc kháng chiến của Đảng ta và Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Bài học đó đã được
vận dụng sáng tạo trong trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước để dẫn tới Mùa xuân đại thắng 1975.
70 năm đã trôi qua, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vẫn là lời hiệu
triệu toàn dân tộc phát huy tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kết nối truyền thống
với hiện tại trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
ngày hôm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét