Tổng số lượt xem trang

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017

CÓ HỌC MÀ NHƯ VÔ HỌC

                      NHN
       Đồng hành cùng quá trình Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, một số người có học thức, hiểu biết từng mang Quốc tịch Việt Nam, từng tự hào là dòng dõi “con Lạc cháu Hồng” đã “ôm chân” các thế lực thù địch, bán rẻ lương tâm, cam tâm làm tay sai chống đối quyết liệt Đảng và chế độ.
Trong số những kẻ đó, phải kể đến một nhân vật mà nhân dân Việt Nam không lạ gì – Bùi Tín. Ngày 14-10-2015, trên trang mạng xã hội, Bùi Tín đã tung lên bài viết “Đảng CSVN còn bao nhiêu phần trăm chất cộng sản?”.
      Đông đảo nhân dân Việt Nam đều biết khá rõ về thân phận Bùi Tín. Một thời Bùi Tín đã từng là một quân nhân “ăn cơm Dân, mặc áo Đảng”, nhưng do thiếu tu dưỡng rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bản lĩnh chính trị kém, bị kẻ địch lôi kéo rơi vào vòng xoáy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” “suy thoái”, rồi từ bỏ quân đội, Tổ quốc, theo gót chân các thế lực thù địch, quay lưng lại với Đảng, Tổ quốc, nhân dân. Hơn hai thập kỷ gần đây, Bùi Tín đã điên cuồng viết “theo đơn đặt hàng” của những thế lực thù địch, tung lên mạng hàng trăm bài sặc mùi xấu độc, vu khống, bôi nhọ, hạ thấp vai trò, thanh danh, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bài viết “Đảng cộng sản Việt Nam còn bao nhiêu phần trăm chất cộng sản” của mình ngày 14-10-2015 trên trang mạng xã hội, Bùi Tín có sự “đầu tư” cho sử dụng từ ngữ và cách diễn cũng tưởng như “lôgic”. Trong đoạn mở đầu, Bùi Tín tự hỏi một câu rằng “một câu hỏi lý thú gợi lên nhiều suy tư, ngẫm nghĩ, so sánh giữa lý luận – học thuyết với cuộc sống thực tiễn, trong một thời gian dài”. Để chứng minh cho cái gọi là “Đảng CS hiện nay không còn phần trăm CS nào”, Bùi Tín đã tự “sám hối” rằng, “69 năm trước tôi đã vào đảng CS ra sao. Đó là đầu năm 1946, tôi đi học lớp cán bộ quân chính của Quân đội Nhân dân 5 tuần lễ ở thị trấn Tông, Sơn Tây. Tại đây tôi được tuyên truyền về Chủ nghĩa CS và về đảng CS”. Trong trang đầu bài viết, Bùi Tín nêu lên lý luận chủ nghĩa xã hội của Mác, với những đặc trưng tốt đẹp về một xã hội cộng sản tương lai, rằng “chúng tôi thấy trong xã hội CS quả là thiên đường lý tưởng…Xã hội phồn vinh thừa thãi, nhà không cần hàng rào, đêm không cần đóng cửa”.
      Nếu đọc không kỹ nội dung bài viết, dễ lầm tưởng là Bùi Tín đang ca ngợi lý luận Mác. Sự thật lại trái ngược, Bùi Tín đang mỉa mai, phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của lý luận ấy. Bằng những thủ thuật “tiểu xảo” trong cách lập luận, Bùi Tín cho rằng thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng CS từ sau 30/4/1975 đã đi ngược lại lý luận chủ nghĩa Mác, rằng “Bản thân tôi bắt đầu băn khoăn nản chí từ ngay sau 30/4/1975, khi lời hứa hẹn hòa giải – hòa hợp dân tộc của Đảng đã bị phản bội, khi đảng bỏ tù hàng chục vạn viên chức, binh sĩ ở miền Nam, là đồng bào ruột thịt của ta cả. Rồi đổi tiền, bắt đi kinh tế mới, cải tạo công thương nghiệp…”. Với những dữ liệu tự nghĩ, Bùi Tín đi đến quy kết rằng công cuộc mà nhân dân Việt Nam tái thiết nước Việt Nam sau ngày giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nhiều thập kỷ qua đang bị Đảng Cộng sản Việt Nam lừa dối, đang đi xuống địa ngục. Với việc sử dụng tư liệu bịa đặt, cùng cách lập luận “mỹ miều” đầy tính chất phản động, Bùi Tín muốn nhắm tới đích cuối cùng là phủ nhận tính cách mạng, khoa học của đường lối cách mạng mà nhân dân ta đang nổ lực thực hiện, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; kêu gọi nhân dân Việt Nam đấu tranh chống lại sự lãnh đạo của Đảng.
      Xét về lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) là do đòi hỏi khách quan, cấp thiết của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn lấy lợi ích Tổ quốc, dân tộc, nhân dân làm tôn chỉ mục đích hoạt động của mình. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh (dù đất nước có chiến tranh, chia cắt hay đã hòa bình thống nhất), Đảng luôn tuân theo “mệnh lệnh quốc dân”, dựa vào nhân dân, thay mặt nhân dân gánh vác trọng trách lịch sử mà nhân dân ủy thác. Chính vì tôn chỉ mục đích, phương thức hoạt động của Đảng phản ánh, phù hợp ý chí nguyện vọng của nhân dân, nên Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đánh đuổi kẻ thù ngoại xâm ra khỏi biên giới, giải phóng dân tộc, thu non sông về một mối. Những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước luôn gắn liền với công lao, sự hy sinh to lớn “vì nước, vì dân” của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân Việt Nam.
        Giai đoạn cả nước thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục thực hiện trọng trách lịch sử mà nhân dân Việt Nam giao phó, lãnh đạo nhân dân tiến hành nhiệm vụ cải tạo và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Không giống như một số nước, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm vô cùng khó khăn: bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp nhỏ, trình độ lực lượng sản xuất thấp, hậu quả mà chiến tranh để lại rất nặng nề; các lực lượng phản động, thù địch ráo riết chống phá; tổ chức xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, mang tính chất triệt để cách mạng, v.v.. Những đặc điểm này tác động rất lớn, lâu dài đến tiến trình, chất lượng cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới cho thấy, bất luận mang tính chất gì cũng gắn liền với quá trình loại trừ những nhân tố cản trở, không phù hợp, trái quy luật. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng tuân thủ quy luật chung đó, nhưng hàm chứa nhiều nội dung mới, mang tính chất triệt để. Trong giai đoạn Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cả nước thống nhất, cùng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ: trấn áp, bắt giam các lực lượng gây rối trật tự trị an, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cuộc sống yên bình của nhân dân; tổ chức lại các khu dân cư, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết lập lại hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng, thị trường cho khoa học, phù hợp với tình hình mới v.v.. là nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng, phù hợp với nguyện vọng chân chính của đại đa số nhân dân Việt Nam. Trong suốt nhiều năm lãnh đạo nhân dân thực hiện những nhiệm vụ đó, Đảng luôn tuân thủ quy trình: dân chủ lấy ý kiến trong toàn dân, toàn Đảng, rồi tổng hợp, xây dựng thành chủ trương, chính sách và lãnh đạo tổ chức thực hiện. Cách làm này của Đảng là dân chủ, thống nhất, nhân văn, khác hoàn toàn với luận điệu rêu rao trên mạng xã hội của Bùi Tín.
       Do cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam diễn ra toàn diện, mang tính chất triệt để trên nhiều lĩnh vực, nên quá trình lãnh đạo Đảng khó tránh khỏi những vấp váp, hạn chế, sai lầm. Điều đáng nói, và cũng đáng tự hào là những bất cập, yếu kém, khuyết điểm của Đảng trong quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ cải tạo và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng công khai thừa nhận trước toàn thể nhân dân, và tìm cách chấn chỉnh, khắc phục, sửa chữa. Chính điều này đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng thành, vững mạnh; được nhân dân Việt Nam thừa nhận, đặt niềm tin, hy vọng và sự kính trọng. Một kẻ từ bỏ quê hương, Tổ quốc, đi làm tay sai chống lại Đảng và nhân dân Việt Nam như Bùi Tín chắc cũng quá thừa hiểu điều đó, vì đó là một thực tế đã và đang diễn ra hằng ngày trên đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những gì mà Bùi Tín nêu câu hỏi “Đảng CSVN còn bao nhiêu phần trăm chất cộng sản?”, rồi tự mình kết luận rằng “chẳng còn phần trăm CS nào” thật là trơ trẽn, tráo trở, vu khống sai sự thật lịch sử đã và đang diễn ra trên đất nước Việt Nam; là luận điệu của kẻ phản bội Tổ quốc, không thể tha thứ. Chỉ có Bùi Tín kẻ trở cờ, phản bội điên cuồng chống phá Đảng, chế độ XHCN mới là kẻ biến chất không còn phần trăm CS nào. Thực là có học mà như vô học.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét